K. Marx - F. Engels
Gia đình thần thánh
CHƯƠNG II
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
VỚI TƯ CÁCH MÜHLEIGNER1
HAY LÀ SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
THỂ HIỆN Ở ÔNG JULES FAUCHER
Sau
khi sự phê phán sa xuống chỗ nói nhăng
nhít bằng tiếng nước ngoài đã phục vụ đắc lực cho tự ý thức và đồng thời bằng
hành động đó đã giải phóng thế giới khỏi cảnh bần cùng thì trong thực tiễn và lịch sử, sự phê phán
cũng quyết tâm sa xuống chỗ nói nhăng nhít. Nó thông hiểu "những vấn đề bức thiết trong sinh hoạt nước
Anh" và cung cấp cho chúng ta một bức phác hoạ thực sự phê phán về lịch
sử công nghiệp Anh"2.
Sự phê phán
tự mãn tự cao, hoàn thiện hoàn mỹ trong bản thân nó, dĩ nhiên không thể thừa
nhận lịch sử đúng như lịch sử đã phát triển trong thực tế, vì như vậy có khác
gì thừa nhận quần chúng
hèn kém có tính quần chúng một cách quần chúng, mà thực ra vấn đề ở đây chính là làm cho quần
chúng mất tính quần chúng ấy đi. Như vậy lịch sử được giải thoát khỏi tính quần
chúng của nó và sự phê phán được tự do xử
lý đối tượng của mình, thét
bảo lịch sử rằng: "mi nên biết rằng
mi phải diễn ra như thế, như thế!". Mọi luật pháp của sự phê phán đều
có lực lượng đảo ngược: trước khi có những phán quyết của sự phê phán, lịch sử đã diễn ra hoàn toàn
khác với phán quyết của sự phê phán.
Cho nên lịch sử của quần chúng, tức cái gọi là lịch sử hiện
thực, khác xa với lịch sử của sự phê phán trình
bày trong "Literatur- Zeitung" số VII, kể từ trang 4.
Trong lịch
sử của quần chúng, chưa có công xưởng thì chưa có bất cứ thành phần công xưởng nào; nhưng trong lịch sử phê phán,
trong đó con sinh ra cha như trong triết
học Hegel trước kia thì Manchester,
Bolton và Preston đã là những
thành phố công xưởng phồn vinh khi chưa ai nghĩ đến công xưởng cả. Trong lịch
sử hiện thực, sự phát triển của công
nghiệp dệt bông bắt đầu chủ yếu từ khi máy xe sợi Jenny của Hargreaves và máy kéo sợi chạy bằng
sức nước của Arkwright được dùng vào sản
xuất, và máy mule của Crompton thì
chỉ là máy Jenny được cải tiến thêm dựa vào nguyên lý mới của
Arkwright mà thôi. Nhưng lịch sử phê phán lại khéo phân biệt: nó khinh miệt
tính phiến diện của máy Jenny và máy kéo sợi chạy bằng sức nước và đề cao máy mule lên thành sự
đồng nhất tư biện của hai cực ấy. Thực ra, sự phát minh ra máy kéo sợi chạy
bằng sức nước và máy mule đã mở ngay ra khả năng ứng dụng sức nước vào những máy móc đó; nhưng sự phê phán có tính
phê phán lại tách rời những nguyên tắc đã được bàn tay thô lỗ của lịch sử trộn
lẫn với nhau và quy
sự ứng dụng đó vào thời đại muộn hơn coi như một cái gì hoàn toàn đặc thù. Trên
thực tế, sự phát minh ra máy hơi nước đã có trước
tất cả những phát minh vừa kể trên; nhưng ở sự phê phán, máy hơi nước là đỉnh
cao nhất của toàn bộ lâu đài, do đó xét về thời gian, là phát minh có sau cùng.
Trên thực
tế, quan hệ buôn bán, theo ý nghĩa
hiện đại, giữa Liverpool và Manchester là kết quả của việc xuất khẩu hàng hoá
của nước Anh, nhưng trong sự phê phán, những quan hệ buôn bán đó đều là nguyên nhân của xuất khẩu, và cả hai,
quan hệ buôn bán và xuất khẩu, đều là kết quả của vị trí gần nhau của hai thành
phố ấy. Trong thực tế, hầu hết mọi hàng hoá mà Manchester gửi sang đại lục đều
qua Hull, nhưng trong sự phê phán lại
qua Liverpool.
Trên thực tế, trong các công
xưởng Anh có đủ mọi bậc lương từ 1.5 shilling
đến 40 shilling hoặc hơn nữa; nhưng trong sự phê phán thì chỉ có một mức lương là 11 shilling thôi. Trên
thực tế, máy móc thay thế lao động thủ công, nhưng trong sự phê
phán máy móc lại thay thế tư duy.
Trên thực tế, công nhân ở Anh được
phép liên hợp lại để đòi tăng lương,
nhưng trong sự phê phán thì họ lại bị cấm làm việc đó vì quần chúng muốn làm
việc gì cũng phải xin
phép sự phê phán trước đã. Trên thực tế, lao
động công xưởng là hết sức mệt nhọc
và gây ra những bệnh đặc biệt (đã có những bộ sách y học chuyên nghiên cứu
những bệnh đó); nhưng trong sự phê phán "sự khẩn trương quá mức không thể
làm trở ngại lao động vì sức lực bỏ ra là của máy móc". Trên thực tế, máy
móc là máy móc; nhưng trong sự phê phán máy móc lại có ý chí: máy móc không nghỉ ngơi nên công nhân cũng không được nghỉ
ngơi; như vậy là công nhân bị một ý chí ngoại lai chi phối.
Nhưng tất
cả những cái đó đều chưa đáng kể. Sự phê phán không thoả mãn với những chính đảng
của quần chúng ở Anh; nó còn sáng tạo ra những chính đảng mới; nó sáng lập
ra "đảng công xưởng", bởi vậy lịch sử phải cảm ơn nó. Song
nó lại nhập cục chủ xưởng với công nhân công xưởng thành một khối quần chúng - những chuyện lặt vặt đó có gì đáng phải bận tâm! - và
quả quyết rằng công nhân công xưởng không quyên tiền vào quỹ của Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc3,
không phải như bọn chủ xưởng ngu ngốc tưởng, là do ác ý hoặc do ủng hộ chủ nghĩa
hiến chương mà chỉ là vì nghèo khổ. Sau đó nó còn quả quyết rằng nếu người ta
huỷ bỏ đạo luật ngũ cốc của
nước Anh thì công nhân nông nghiệp làm công nhật phải chịu hạ tiền lương xuống,
nhưng chúng tôi mạo muội chỉ ra rằng giai cấp nghèo xác nghèo xơ đó không còn
có thể chịu để mất một xu nào nữa, nếu không họ sẽ chết đói. Nó quả quyết rằng trong các công xưởng Anh, người ta
làm việc mỗi ngày 16 giờ, mặc dầu
luật pháp nước Anh rất ngu xuẩn và không có tinh thần phê phán đã quan tâm sao cho ngày làm không vượt quá 12 giờ. Nó quả quyết rằng nước
Anh vẫn phải là một công xưởng lớn của toàn thế giới, mặc dầu đông đảo người
Mỹ, người Đức và người Bỉ
không có tinh thần phê phán đã cướp đoạt dần dần, bằng cạnh tranh, hết thị
trường này đến thị trường khác của người Anh. Sau hết, nó khẳng định rằng sự tập trung tài sản và hậu quả của sự
tập trung đó đối với các giai cấp cần lao thì ở Anh, vô luận là người vô sản
hay người hữu sản, đều không nhìn thấy, song phái Hiến chương ngu xuẩn lại cho
rằng họ đã hiểu hết sức rõ ràng hiện tượng tập trung tài sản, và những người xã hội chủ nghĩa thì nghĩ
rằng từ lâu lắm rồi họ đã trình bày cặn kẽ tất cả những hậu quả đó. Không phải
chỉ có thế: ngay cả phái bảo thủ và phái tự do như Carlyle, Alison và Gaskell
cũng đã chứng minh, bằng tác phẩm của mình, rằng họ đã hiểu biết hiện tượng ấy.
Sự phê phán
quả quyết rằng luật mười giờ của Huân
tước Ashley4 là một biện
pháp trung dung hời hợt và bản thân Huân tước Ashley "là sự phản ánh trung thành của
hoạt động lập hiến", trong khi đó thì hiện nay bọn chủ xưởng, phái Hiến
chương, bọn chiếm hữu ruộng đất, tóm lại cả cái nước Anh quần chúng vẫn coi
biện pháp đó là biểu hiện - đành rằng rất yếu ớt - của một nguyên tắc triệt để
cấp tiến vì nó phá vỡ nền móng của ngoại thương và do đó phá vỡ nền móng của
chế độ công xưởng, hay nói đúng hơn không những phá vỡ mà còn đào tận gốc nền
móng đó. Điểm này, sự phê phán có tính phê phán biết rõ hơn ai hết. Nó biết
rằng vấn đề ngày làm việc 10 giờ đã được thảo luận trong một "tiểu
ban" nào đó của Hạ nghị viện, trong khi những báo không phê phán tìm cách
làm cho chúng ta tin rằng "tiểu ban" ấy là bản thân Hạ nghị viện, nghĩa là "uỷ ban toàn viện"; nhưng dĩ nhiên là sự phê phán không
thể xoá bỏ cái tính kỳ quặc đó của hiến pháp Anh.
Sự phê phán
có tính phê phán tự mình tạo ra cái đối
lập với mình tức sự ngu xuẩn của quần chúng, đồng thời
cũng tạo ra sự ngu xuẩn của Sir James Graham: bằng
cách giải thích tiếng Anh một cách phê phán, nó đã gắn cho ông bộ trưởng không phê phán của Bộ Nội vụ những điều mà ông
ta chưa hề nói bao giờ, và nó làm như thế chỉ cốt cho sự ngu xuẩn của Graham
làm nổi bật hơn sự thông minh của bản thân sự phê phán. Nếu nghe theo sự phê
phán thì Graham khẳng định rằng máy móc ở công xưởng có thể dùng trong khoảng
12 năm bất kể là mỗi ngày máy móc đó làm việc 10 hoặc 12 giờ, thành thử luật 10
giờ làm cho nhà tư bản không thể tái sản xuất ra được số tư bản đã bỏ vào những
máy đó trong 12 năm làm việc của máy. Sự phê phán chứng tỏ rằng kết luận mà nó
gán cho Sir James Graham, là kết luận sai, vì một chiếc máy làm việc mỗi
ngày kém đi 1/6 thời gian thì dĩ nhiên có thể sử dụng được lâu hơn.
Dù nhận
định đó của sự phê phán có tính phê phán đối với kết luận sai lầm của bản thân
nó có chính xác thế nào đi nữa, chúng ta cũng vẫn phải công bằng đối với Sir
James Graham; thực ra
ông tuyên bố rằng: thực hiện luật ngày làm 10 giờ thì máy móc phải tăng tốc độ
của nó một cách tỷ lệ với sự rút ngắn thời gian công tác của nó (đó là điều mà
bản thân sự phê phán dẫn ra trong trang 32, số VIII) và trong điều kiện này,
thời gian hao mòn của máy móc vẫn như cũ, nghĩa là 12 năm. Không thể không thừa nhận điều đó, nhất là thừa nhận như vậy chỉ là tán dương và ca tụng
"sự phê phán" vì không phải ai khác mà chính sự phê phán không những
đã đưa ra kết luận sai lầm ấy, kết luận mà sau này chính nó lại bác bỏ. Sự phê
phán cũng tỏ ra hết sức rộng lượng đối với Huân tước John Russell, người mà nó gán cho là có ý định sửa đổi hình thức
của chế độ nhà nước và chế độ bầu cử; do đó chúng ta phải rút ra kết luận rằng
hoặc là sự phê phán vốn đặc biệt ưa bịa ra những điều ngu xuẩn, hoặc là tuần lễ
vừa qua, bản thân Huân tước John Russell đã biến thành một nhà phê phán có tính phê
phán.
Nhưng sự
phê phán chỉ trở thành thực sự tuyệt diệu trong việc thêu dệt ra những điều ngu xuẩn khi nó
phát hiện rằng công nhân Anh - những công nhân này, trong tháng
Tư và tháng Năm, đã tổ chức hết cuộc meeting này đến cuộc meeting khác, đã
viết hết đơn yêu cầu này đến đơn yêu cầu khác để đòi thực hiện luật 10 giờ,
những công nhân này đã biểu thị một sự phẫn nộ chưa từng có trong suốt cả hai
năm qua, và điều đó xảy ra khắp nơi trong các khu công xưởng - chỉ "quan
tâm một phần" đến vấn đề đó tuy rằng xem ra thì "sự hạn chế bằng pháp
luật thời gian lao động cũng làm họ chú ý". Sự phê phán thực sự tuyệt diệu
khi mà nó đã có những phát hiện lớn lao, tuyệt diệu, chưa từng có là
"thoạt nhìn sự xoá bỏ đạo luật ngũ cốc hứa hẹn một sự giúp đỡ trực tiếp
hơn, cho nên công nhân đang và sẽ gửi gấm phần lớn hy vọng của họ vào đấy cho
tới khi sự thoả mãn những nguyện vọng ấy - sự thoả mãn mà người ta không nghi
ngờ mảy may nào cả - thực tế chứng minh cho họ thấy tất cả sự vô ích của việc
xoá bỏ đạo luật đó"
Và sự phê phán ấy nói về những công nhân đã kiên
quyết đuổi khỏi diễn đàn của các cuộc meeting kẻ nào phát biểu ủng hộ việc huỷ
bỏ đạo luật ngũ cốc; về những công nhân đã làm cho Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc không dám tổ chức
meeting ở bất cứ
thành phố công xưởng nào ở Anh; về những người công nhân đã coi Đồng minh ấy là
kẻ thù duy nhất của mình và đã được sự ủng hộ của phái bảo thủ trong cuộc thảo
luận về đạo luật 10 giờ cũng như trong hầu hết các cuộc thảo luận trước kia về
những vấn đề tương tự. Sự phê phán cũng rất là tuyệt diệu khi nó phát hiện ra
rằng "công nhân vẫn còn bị mê hoặc bởi những lời hứa hẹn rộng rãi của phong trào Hiến chương", một phong
trào thực ra chỉ là biểu hiện chính trị của dư luận rộng rãi của công nhân.
Trong thâm tâm của tinh thần tuyệt đối của mình, sự phê phán nhìn thấy rằng
"hai tập đoàn - tập đoàn chính trị và tập đoàn chủ ruộng đất, chủ công xưởng - đã không muốn kết hợp hay hoà lẫn vào nhau"
Song
hiện nay, chúng tôi chưa thấy ai nói rằng tập đoàn chủ ruộng đất và chủ công
xưởng, tuy số người của hai giai cấp những người tư hữu này không đông và có
quyền lợi chính trị hoàn toàn giống nhau (trừ một thiểu số quý tộc) nhưng lại
có tính chất rộng như vậy, và
chúng tôi chưa thấy ai nói rằng tập đoàn này - trên thực tế
là biểu hiện triệt để nhất và đỉnh cao của các chính đảng - lại tuyệt đối đồng
nhất với các tập đoàn chính đảng. Sự phê phán còn thật sự tuyệt diệu hết chỗ
nói khi nó gán cho tất cả những ai chống lại đạo luật ngũ cốc là chẳng hiểu gì
về một sự thực là trong tình hình các điều kiện khác không thay đổi thì sự hạ giá ngũ cốc tất nhiên sẽ đưa
tới sự hạ thấp tiền lương và do đó đâu lại vào đấy cả, song thực ra các ngài đó
lại trông chờ sự hạ thấp tiền lương một cách rõ rệt và do đó sự giảm bớt chi
phí sản xuất gắn liền với sự hạ thấp tiền lương sẽ đưa tới sự mở rộng thị
trường một cách tương ứng và đưa tới sự giảm bớt cạnh tranh giữa công nhân với
nhau, kết quả là tiền lương so với giá ngũ cốc sẽ được duy trì hơi cao hơn hiện
nay.
Say sưa
theo kiểu nhà nghệ thuật, sự phê phán tự mình sáng tạo ra cái đối lập với mình
là lời nói nhăng nhít, - cũng sự phê phán đó, trước đây hai năm, đã kêu lên
rằng: "sự phê phán nói tiếng Đức, thần học nói tiếng Latin"5,
bây giờ nó lại đã học tiếng Anh, và gọi người chiếm hữu ruộng đất là
"Landeigner" (landowners),
gọi chủ công xưởng là "Mühleigner (mill-owners; tiếng Anh, chữ
"mill" dùng để chỉ những công xưởng máy móc đều chạy bằng hơi nước
hoặc sức nước), gọi công nhân là "tay"
(hands), dùng "giao thoa" (interference) thay cho "can
thiệp", và dựa vào lòng thương hại vô hạn đối với tiếng Anh thấm đầy tính
quần chúng tội lỗi, nó thậm chí đã hạ mình xuống cải tiến tiếng Anh và xoá bỏ
quy tắc rởm của người Anh, quy tắc theo đó người Anh bao giờ cũng đặt tiếng
xưng hô "Sir" trước tên chứ
không phải trước họ của các huân tước và nam tước. Quần chúng nói "Sir
James Graham", còn sự phê phán nói: "Sir Graham".
Sự phê phán bắt tay
cải tạo lịch sử nước Anh và tiếng Anh xuất phát từ nguyên tắc chứ không phải vì nhẹ dạ. Đó là điều mà giờ đây bạn đọc sẽ
thấy trong tính triệt để của sự phê
phán khi nó giải thích lịch sử của ngài
Nauwerck.
Chú thích
1 "Mühleigner" (nghĩa đen là:
"chủ xưởng xay bột"): tiếng Đức vốn không có chữ này, mà là dịch từ
tiếng Anh mill-owner - người sở hữu công xưởng, chủ xưởng. Ở đây Engels có ý châm
biếm J. Faucher, một cộng tác viên của "Allgemeine
Literatur-Zeitung", đã sử dụng trong các bài báo của mình một chữ do ông
đặt ra theo hình thức chữ Anh.
2 Engels nói tới bài "Vấn đề bức thiết trong đời sống
nước Anh" của J. Faucher đăng trên tờ "Allgemeine Literatur-Zeitung" số 7 và 8 (tháng Sáu
và Bảy 1844).
3 Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc do Cobden và Bright, chủ xưởng ở
Manchester thành lập năm 1838. Đạo luật ngũ cốc nhằm hạn chế, thậm chí cấm nhập khẩu ngũ cốc của nước ngoài, được ban hành ở Anh để
bảo vệ lợi ích của bọn đại địa chủ. Đồng minh này đòi hoàn toàn tự do mậu dịch. Phế bỏ đạo luật
ngũ cốc nhằm mục đích hạ thấp tiền lương của công nhân, làm suy yếu địa vị kinh tế và chính trị của địa
chủ quý tộc. Trong cuộc đấu tranh chống địa chủ, Đồng minh đã định lợi dụng quần chúng công
nhân, nhưng chính lúc đó, những công nhân tiên tiến nước Anh đã bắt đầu bước
vào một phong trào công nhân có tổ chức, độc lập về chính trị (phong trào Hiến chương).
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản công nghiệp và quý tộc địa chủ về vấn đề đạo luật ngũ cốc đã
kết thúc năm 1846 khi thông qua dự luật phế bỏ đạo luật ngũ cốc.
4 Cuộc đấu tranh ở Anh đòi hỏi hạn chế bằng pháp luật
thời gian lao động xuống ngày 10 giờ bắt đầu từ cuối thế kỷ XVIII và đầu những
năm 30 thế kỷ XIX đã lôi cuốn được đông đảo quần chúng vô sản tham gia. Vì đại biểu
của quý tộc địa chủ ra sức lợi dụng khẩu hiệu ăn sâu vào lòng người đó trong
cuộc đấu tranh của chúng chống lại giai cấp tư sản công nghiệp, nên trong nghị
viện chúng đã ủng hộ dự luật ngày làm 10 giờ; từ năm 1833, nhân vật chủ chốt
ủng hộ dự luật đó tại nghị viện là huân tước Ashley, "nhà từ thiện thuộc đảng
Tory".
5 Đây là câu nói của
B. Bauer trong cuốn sách của ông ta "Die gute Sache der Freiheit und meine
eigene Angelegenheit". Zürich und Winterthur, 1842 ("Sự nghiệp chính nghĩa tự do và sự
nghiệp của chính tôi" xuất bản năm 1842 ở Zürich và Winterthur).
[Chương trước]
[Mục lục]
[Chương sau]