K. Marx - F. Engels
Gia đình thần thánh
CHƯƠNG V
SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
VỚI TƯ CÁCH ANH LÁI BUÔN NHỮNG BÍ MẬT
HAY LÀ SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN
THỂ HIỆN Ở ÔNG SZELIGA
"Sự phê phán có tính phê phán" thể hiện ở Szeliga-Vishnu đã hết lời ca tụng "Những bí mật của thành Paris". Eugène Sue được tôn lên làm "nhà phê phán có tính phê phán". Chỉ cần ông ta biết việc này, ông ta sẽ ngạc nhiên kêu lên như anh "Trưởng giả học làm sang" của Molière:"Trời ơi! tôi làm văn xuôi hơn 40 năm trời nay mà tôi không hề biết và tôi đội ơn Ngài vô cùng vì hôm nay Ngài đã mách bảo tôi điều đó"1
Trước khi phê phán, ông Szeliga đã đưa ra một lời tiểu dẫn mỹ học."Anh hùng ca sáng tạo ra một tư tưởng cho rằng bản thân hiện tại chẳng là gì hết, thậm chí không những chỉ là" (chẳng là gì hết, thậm chí không những chỉ là!) "ranh giới vĩnh viễn giữa quá khứ và tương lai, mà còn là" (chẳng là gì hết, thậm chí không những chỉ là mà còn là!) "vết rạn cần phải thường xuyên bồi đắp nó ngăn cách cái bất diệt với cái nhất thời... Đấy là ý nghĩa phổ biến của "Những bí mật của thành Paris"
Tiếp đó, "lời tiểu dẫn mỹ học" quả quyết rằng "nhà phê phán nếu muốn thì cũng có thể trở thành nhà thơ".1. "BÍ MẬT CỦA SỰ DÃ MAN TRONG VĂN MINH" VÀ
"BÍ MẬT CỦA TÌNH TRẠNG KHÔNG CÓ PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC"
"Mọi người dù giàu nghèo sang hèn đều bình đẳng trước pháp luật và quan toà. Nguyên lý này đứng hàng đầu trong tín điều của nhà nước"
Của nhà nước ư? Trái hẳn lại tín điều của đa số các nhà nước đều quy định ngay từ đầu rằng: giàu nghèo sang hèn đều bất bình đẳng trước pháp luật."Với sự đúng mực ngây thơ của mình, anh thợ đẽo đá Morel nói rất rõ bản chất của bí mật đó" (tức là bí mật về sự đối lập giữa người giàu và người nghèo). "Anh ta nói: Phải chi người giàu cũng biết điều đó! Phải chi người giàu cũng biết điều đó! Song không may thay, họ không biết sự nghèo nàn là gì cả!"
Ông Szeliga không biết rằng Eugène Sue vì lễ phép với giai cấp tư sản Pháp nên đã lầm lẫn thời đại khi ông ta đem lời nói thông thường của người tư sản dưới triều Louis XIV: "À! Phải chi Đức vua cũng biết điều đó!" sửa thành "À! Phải chi người giàu cũng biết điều đó \!" và đặt vào miệng anh công nhân Morel ở thời đại "Hiến chương chân lý"2. Ít ra là ở Anh và ở Pháp, cũng không còn tồn tại quan hệ chất phác đó giữa người giàu và người nghèo. Những đại biểu học giả của bọn giàu có, tức các nhà kinh tế học, đã truyền bá ở đây những kiến giải rất tỉ mỉ về sự nghèo nàn thể xác cũng như sự nghèo nàn tinh thần của sự khốn cùng. Với một giọng an ủi, họ chứng minh rằng vì phải bảo tồn hiện trạng của sự vật, nên hình như cũng phải bảo tồn sự bần cùng đó. Nhưng vẫn chưa hết. Họ thậm chí còn tính toán cẩn thận rằng vì phúc lợi của người giàu và của bản thân họ, người nghèo nên chết đi theo một tỷ lệ như thế nào đó để giảm bớt số người của mình đi."nghiên cứu bí mật của những động cơ đẩy đến tội ác", v.v., "vì chính ở những nơi đi lại tấp nập nhất... bọn tội phạm lại cảm thấy như ở nhà"
Nếu có người chứng minh với nhà khoa học tự nhiên rằng tổ ong gây hứng thú cho nhà khoa học tự nhiên không phải với tính cách là tổ ong, rằng tổ ong đó không phải là điều bí mật đối với kẻ nào không nghiên cứu nó, vì chính ở trong không khí trong lành và trên những bông hoa con ong "cảm thấy mình hoàn toàn như ở nhà" thì nhà khoa học tự nhiên sẽ nói thế nào? Chính sào huyệt và tiếng nói của bọn tội phạm phản ánh tính cách của tội phạm; đó là những bộ phận cấu thành không thể tách rời được của đời sống hàng ngày của bọn tội phạm, cho nên mô tả tội phạm tất nhiên phải mô tả những mặt đó cũng như mô tả femme galante1* tất nhiên phải mô tả petite maison2*.2. BÍ MẬT CỦA KẾT CẤU TƯ BIỆN
Bí mật của bản trần thuật có tính phê phán "Những bí mật của thành Paris" chính là bí mật của kết cấu tư biện, kiểu Hegel. Sau khi đã gọi "sự dã man trong văn minh" và "tình trạng không có pháp luật trong nhà nước" là bí mật, nghĩa là sau khi đã hoà tan những cái đó vào phạm trù "bí mật", ông Szeliga bắt "bí mật" phải bắt đầu lịch trình tư biện của cuộc sống của nó. Chỉ vài chữ thôi cũng đủ để nói lên đặc điểm chung của kết cấu tư biện. Trong khi bàn về "Những bí mật của thành Paris", ông Szeliga vạch cho ta thấy những chi tiết của sự vận dụng kết cấu đó.3. "BÍ MẬT CỦA XÃ HỘI CÓ GIÁO DỤC"
Sau khi đã chỉ cho chúng ta thấy những tầng lớp thấp nhất của xã hội và đưa chúng ta đi thăm những quán rượu của bọn tội phạm, v.v., Eugène Sue lại dẫn chúng ta vào xã hội thượng lưu và đến một phòng khiêu vũ ở khu phố Saint Germain."Cái bí mật bao giờ cũng tìm cách dùng một sự chuyển biến mới để trốn tránh sự khảo sát. Cho tới nay, với tư cách là một cái gì tuyệt đối không hiểu được, không sao nắm được, có tính chất phủ định nó vẫn đối lập với cái có thực, hiện thực và khẳng định. Hiện nay nó lại xâm nhập vào cái có thực, hiện thực, khẳng định ấy như là nội dung không thể thấy được của cái ấy. Nhưng do đó mà nó cũng loại trừ tính tuyệt đối không có nhận thức được"
Cái "bí mật" từ trước tới nay vẫn đối lập với "cái có thực", "hiện thực" và "khẳng định", nghĩa là với pháp luật và giáo dục "bây giờ lại thâm nhập vào cái ấy", nghĩa là vào lĩnh vực giáo dục thì đây là một điều bí mật, nếu không phải là điều bí mật của Paris thì cũng là điều bí mật đối với Paris. Ông Szeliga không chuyển từ những bí mật của thế giới tội phạm sang những bí mật của xã hội quý tộc; mà trái lại làm cho cái "bí mật nói chung" trở thành "nội dung không thể thấy được", thành bản chất thực sự của xã hội có giáo dục. Đây không phải là một "sự chuyển biến mới" của ông Szeliga để mở đường cho những sự khảo sát sâu thêm; đó là "sự chuyển biến mới" của bản thân cái bí mật để cho nó có thể lẩn tránh sự điều tra."Rõ ràng là người ta có thể dự kiến rằng cái bí mật bao giờ cũng cố tìm cách ẩn náu trong một cái vỏ rất vững chắc. Và trên thực tế dường như trước mắt chúng ta là tính không thể thâm nhập khó lòng vượt qua...do đó, có thể dự tính, về đại thể có thể nói... Tuy nhiên, ở đây một cuộc thí nghiệm mới để truy cứu đến nơi đến chốn là không tránh khỏi"
Thế là đủ rồi. Trong việc này ông Szeliga đã đạt được nhiều thành tựu đến nỗi"chủ thể siêu hình của bí mật giờ đây hiện ra thanh thoát, nhẹ nhàng, thoải mái và lẳng lơ"
Muốn biến xã hội quý tộc thành điều "bí mật", ông Szeliga tìm cách nhớ vào một số lần suy nghĩ để giải thích ý nghĩa của giáo dục. Ông gán trước cho xã hội quý tộc cả một loạt tính chất mà không ai thấy nó có, để sau đó phát hiện một cái "bí mật" là xã hội quý tộc không có những tính chất đó. Tiếp đó, ông ta coi sự phát hiện đó là cái "bí mật" của xã hội có giáo dục. Ông Szeliga đặt ra cho mình những câu hỏi như: "Lý tính phổ biến" (có lẽ là logic tư biện?) Phải chăng là đầu đề của "những câu chuyện xã giao" trong xã hội có giáo dục? "Phải chăng duy trì có nhịp điệu và cung bậc của tình yêu đối với con người mới làm cho" xã hội đó "trở thành một chỉnh thể nhịp nhàng?" "Cái mà chúng ta gọi là giáo dục chung, phải chăng chính là hình thức của cái phổ biến, của cái vĩnh cửu và của cái lý tưởng", nói cách khác, phải chăng cái chúng ta gọi là giáo dục là kết quả của sự tưởng tượng siêu hình? Để trả lời những câu hỏi đó, ông Szeliga cũng dễ dàng tiên tri a priori rằng:"Nhưng có thể dự tính rằng... câu trả lời đối với những vấn đề ấy sẽ là phủ định"
Trong tiểu thuyết của Eugène Sue, quá trình chuyển từ xã hội bình dân lên xã hội quý tộc được hoàn thành bằng thủ pháp chung của các cuốn tiểu thuyết. Sự hoá trang của Rudolph, ông hoàng Geroldstein, giúp ông đi sâu vào những tầng lớp dưới của xã hội cũng như danh hiệu của ông giúp ông gần gũi tầng lớp trên của xã hội. Điều mà ông suy nghĩ trên đường đi dự cuộc khiêu vũ quý tộc không phải là những cảnh trái ngược của sinh hoạt xung quanh: ông chỉ cảm thấy những cảnh trái ngược của những kiểu hoá trang của mình là thú vị. Ông mách bảo những bạn đường ngoan ngoãn nhất của mình rằng ông cảm thấy thích thú khác thường như thế nào trong những cảnh ngộ khác nhau."Tôi cảm thấy - ông nói - những cảnh trái ngược đó khá thú vị: hôm qua tôi là một họa sĩ ngồi vẽ quạt trong một ngôi nhà nhỏ ở phố Fèves; sáng nay, tôi là anh hầu bàn dâng cho bà Pipelet một cốc crème de cassis và chiều nay... tôi lại là một trong những người có đặc quyền nhờ ơn thần thánh mà cai quản thế gian này"
Được mời dự cuộc khiêu vũ, sự phê phán có tính phê phán cất tiếng hát:"Với sự có mặt của các vị thần trên trái đất
Tôi cơ hồ sắp mất cả tinh thần và lý trí"3
"Ở đây, phép mầu của ảo thuật đã toả ánh sáng mặt trời giữa ban đêm, đã khoác cho mùa đông màu xanh tươi của mùa xuân và vẻ rực rỡ của mùa hè. Lập tức chúng ta bị xâm chiếm bởi tâm trạng là chúng ta sẵn sàng tin vào điều kỳ diệu là có đấng thần linh tồn tại trong lòng người, nhất là khi mà cái đẹp và cái duyên dáng khiến chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng chúng ta đang ở ngay bên cạnh lý tưởng" (!!!)
Hỡi vị mục sư - phê phán ở nông thôn, thiếu kinh nghiệm và cả tin! Chỉ có tính giản dị phê phán của ngài mới có thể vừa bước khỏi phòng khiêu vũ lộng lẫy ở Paris ra đã chuyển ngay vào tâm trạng mê tín đến nỗi tin vào "điều kỳ diệu là có đấng thần linh tồn tại trong lòng người" và thấy những cô gái mê hồn ở Paris là "lý tưởng ở ngay bên cạnh", là những thiên thần hoá thân."Chúng ta làm thế nào để có thể cầu phúc cho những đứa con đáng yêu, làm thế nào để ông chồng được hưởng hạnh phúc đầy đủ"... "Chúng tôi nghe... chúng tôi lấy làm ngạc nhiên... Chúng tôi không dám tin ở tai mình"
Trong thâm tâm, chúng tôi cảm thấy một niềm vui ác độc khi thấy vị mục sư đi nghe trộm chuyện riêng bị thất vọng. Mấy vị phu nhân đó chẳng bàn đến "cầu phúc" cũng chẳng bàn đến "hạnh phúc đầy đủ", cũng chẳng bàn đến "lý tính phổ biến", mà trái hẳn lại "vấn đề là dụ dỗ cho bà d'Harville bạc tình với chồng bà".Bà ta "khá khôn ngoan để không trở thành mẹ, sau một cuộc hôn nhân bí mật"
Khó chịu vì sự khôn ngoan đó của bá tước phu nhân, ông Szeliga đã nghiêm khắc răn bảo rằng:"Theo quan điểm của chúng tôi, hết thảy mọi nguyện vọng của bá tước phu nhân chỉ nhằm có được cái lợi ích kỷ của cá nhân mình"
Nếu bà ta toại nguyện và kết hôn với ông hoàng Geroldstein thì theo ông Szeliga, điều đó chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả."Chúng ta tuyệt nhiên không hy vọng rằng việc bà xuất giá sẽ đem lại hạnh phúc cho bầy tôi của ông hoàng Geroldstein"
Khi kết thúc lời răn bảo, vị tín đồ thanh giáo của chúng ta chỉ ra một cách "hết sức trịnh trọng" rằng:"Sarah" (vị phu nhân khôn ngoan) "tuy là một nhân vật xuất chúng trong đám người hào hoa, nhưng vị tất đã là một ngoại lệ trong giới đó"
Tuy! Nhưng vị tất! Ơ kìa! "nhân vật xuất chúng" trong giới đó - há chẳng phải là một ngoại lệ hay sao?Họ "không được thoả mãn trong lòng. Họ không tìm thấy đối tượng yêu trong hôn nhân, cho nên họ đi tìm bên ngoài hôn nhân. Đối với họ, tình yêu trong hôn nhân vẫn là một bí mật và sự xúc động mãnh liệt của trái tim thúc đẩy họ tìm cách bóc trần bí mật ấy. Như vậy là hai bà đều chìm đắm trong tình yêu bí mật. Những vật hy sinh đó của hôn nhân không tình yêu đã vô tình hạ thấp tình yêu thành một cái gì thuần tuý bên ngoài, thành cái gọi là quan hệ trai gái và sẵn sàng coi nhân tố lãng mạn, tức cái bí mật, là một cái bên trong, một cái đem lại một cái có sinh khí, một cái bản chất trong tình yêu"
Luận cứ biện chứng này càng được ứng dụng vào mọi trường hợp của đời sống thì chúng ta càng phải đánh giá cao công lao của nó."Không phải là những con đường nhỏ rậm mất giữa những lùm cây, không phải là cái mông lung tự nhiên của một đêm trăng, không phải là cái mông lung nhân tạo của những màn cửa và rèm cửa quý giá, không phải là tiếng nhạc du dương và mê ly của những chiếc thụ cầm và phong cầm, không phải là sức cám dỗ của quả cấm..."
Màn cửa và rèm cửa! Tiếng nhạc vừa du dương lại vừa mê ly! Còn có thêm phong cầm nữa! Ngài mục sư ạ, vậy ngài hãy quên nhà thờ đi. Ai sẽ mang phong cầm tới nơi hẹn hò?"Tất cả những cái đó (màn cửa, rèm cửa, và phong cầm) chẳng qua chỉ là một cái gì bí mật"
Thế thì há chẳng phải bí mật này là "bí mật" của tình yêu bí mật hay sao? Tuyệt nhiên không phải."Bí mật trong tình yêu là cái làm cho kích động, say sưa, làm mê ly, là uy lực của tình dục"
Với tiếng nhạc "du dương và mê ly", vị mục sư đã có được cái làm cho mê ly. Và nếu như ông ta không mang rèm cửa và phong cầm mà mang ba ba và rượu sâm banh ra nơi hẹn hò với người yêu thì ông ta sẽ không thiếu cái "làm cho khích động và say sưa"."Đành rằng chúng ta không muốn thừa nhận uy lực của tình dục: Nhưng sở dĩ nó có một uy lực lớn như vậy đối với chúng ta chỉ là vì chúng ta loại trừ nó ra khỏi bản thân chúng ta, vì chúng ta không thừa nhận nó là bản tính của bản thân chúng ta, cái bản tính mà trong trường hợp thừa nhận nó chúng ta có thể khắc phục được một khi nó tìm cách biểu hiện ra bằng cách hy sinh lý tính, tình yêu chân chính và sức mạnh của ý chí"
Theo tinh thần của thần học tự nhiên, vị mục sư khuyên chúng ta thừa nhận tình dục là bản tính của chúng ta để sau đó có thể khắc phục nó, nghĩa là rút lui sự thừa nhận này. Đành rằng ông ta chỉ sẵn sàng khắc phục tình dục, nếu nó định biểu hiện ra bằng cách hy sinh Lý tính (sức mạnh của ý chí, và tình yêu, đối lập với tình dục, là thuộc lĩnh vực của Lý tính) Nhưng ngay cả tín đồ Cơ Đốc không tư biện cũng thừa nhận tình dục trong chừng mực nó không tìm cách biểu hiện ra bằng cách hy sinh lý tính chân chính, tức tín ngưỡng, không hy sinh tình yêu chân chính tức tình yêu thượng đế, không hy sinh sức mạnh chân chính của ý chí, tức ý chí của Christ."Vì vậy, nếu tình yêu không còn là bản chất của hôn nhân, bản chất của luân lý nói chung thì tình dục sẽ trở thành bí mật của tình yêu, của đạo đức, của xã hội có giáo dục, tình dục ở đây không những cần hiểu theo nghĩa hẹp tức sự rung động của thần kinh, luồng máu nóng chạy trong mạch máu, mà còn phải hiểu theo nghĩa rộng hơn khi nó được nâng lên thành cái bề ngoài của uy lực tinh thần, thành lòng ham muốn quyền thế, háo danh và tham vọng... Hầu tước phu nhân McGregor tiêu biểu cho tình dục theo nghĩa thứ hai, tình dục với tính cách là bí mật của xã hội có giáo dục"
Vị mục sư đã nắm trúng vấn đề: muốn khắc phục được tình dục thì trước hết phải chế ngự được những dòng thần kinh và sự tuần hoàn nhanh của máu. - Khi nói đến tình dục theo nghĩa hẹp, ông Szeliga đưa ra ý kiến cho rằng nhiệt độ cao hơn của cơ thể là do máu sôi lên trong mạch máu. Ông ta biết rằng động vật máu nóng sở dĩ mang tên đó là vì nhiệt độ máu của nó nếu không chú ý đến những biến động không đáng kể thì vẫn thường xuyên giữ một độ cao nhất định. - Một khi thần kinh ngừng hoạt động và máu ngừng sôi trong mạch máu thì thể xác tội lỗi, nơi trú ngụ của tình dục, sẽ biến thành thây ma và các linh hồn tha hồ mà bàn bạc với nhau về "lý tính phổ biến", về "tình yêu chân chính" và "đạo đức thuần tuý". Vị mục sư của chúng ta hạ thấp tình dục đến mức thủ tiêu cả những yếu tố kích thích tình yêu tức sự tuần hoàn nhanh của máu (nó chứng minh rằng người yêu không phải có trạng thái trơ trơ không có tình dục) và những dòng thần kinh nó nối liền cơ quan chủ yếu của tình dục với đại não. Ông ta quy tình yêu chân chính thành secretio seminismáy móc và nói lí nhí với một nhà thần học nổi tiếng xấu ở Đức rằng:"Đây không phải vì tình yêu nhục dục, cũng không phải vì nhục dục mà vì Chúa đã phán bảo: các người hãy sinh sôi nảy nở, hãy phát triển đông đảo lên"
Bây giờ, chúng ta hãy so sánh kết cấu tư biện với tiểu thuyết của Eugène Sue. Ở đây, không phải tình dục mà là những điều thần bí, những cuộc mạo hiểm, những trở lực, những niềm lo lắng, những sự nguy hiểm và nhất là sự cám dỗ của quả cấm đã được coi là bí mật của tình yêu.Ở đây nói: "Tại sao nhiều phụ nữ cứ kiếm những người đàn ông không xứng đáng làm chồng mình làm người yêu của mình? Vì ma lực lớn nhất của tình yêu là ở chỗ nó có sức cám dỗ của quả cấm... Bạn sẽ đồng ý rằng gạt bỏ những nỗi lo âu, những niềm đau khổ, những khó khăn, những bí mật, những nguy hiểm thì tình yêu chẳng còn gì nữa hoặc hầu như chẳng còn gì nữa, nghĩa là chỉ còn lại cái xác thịt của người yêu... Tóm lại, nó ít nhiều giống như câu chuyện của một anh chàng được người ta hỏi rằng tại sao anh không kết hôn với mụ goá, tình nhân của anh? - Chao ôi! - anh chàng trả lời, - dĩ nhiên là tôi đã nghĩ tới điều đó, nhưng có điều là cưới nhau rồi thì tôi không biết sẽ đi ngủ đêm ở đâu?"
Nếu ông Szeliga nhấn mạnh rằng bí mật của tình yêu không phải ở xúc cảm đó của quả cấm thì ông Eugène Sue lại nhấn mạnh rằng quả cấm là "ma lực lớn nhất của tình yêu" và là căn cứ của những cuộc mạo hiểm săn tình yêu ở bên ngoài nhà ở."Trong tình yêu cũng như trong buôn bán, sự cấm đoán và sự lén lút bao giờ cũng đi đôi với nhau như hình với bóng"4
Cũng vậy, trái với người giải thích mình một cách tư biện, Eugène Sue khẳng định rằng"khuynh hướng giả vờ và mánh lới cũng như khuynh hướng thích những cái bí mật và éo le là đặc điểm bản chất, là xu hướng bẩm sinh và bản năng chủ yếu của phụ nữ"
Điều làm cho Eugène Sue phiền lòng là thiên hướng đó và ý thích đó chống lại hôn nhân. Ông muốn đem lại cho bản năng ấy của phụ nữ một ứng dụng ít tác hại hơn và bổ ích hơn."Những sự xúc động nóng bỏng của tình yêu chưa hề làm cho trái tim giá lạnh tựa băng của bà rung động: không một sự rung động tơ lòng nào biến đổi được những tính toán khắt khe của người đàn bà mánh lới, tự tư và háo danh này"
Đặc trưng căn bản của người phụ nữ này là tính ích kỷ của lý trí trừu tượng, không có tình cảm và lạnh nhạt khắt khe. Cho nên trong cuốn tiểu thuyết, tâm hồn bà được mô tả là một tâm hồn "khô khan và khắc nghiệt", đầu óc bà là một đầu óc "khôn ngoan và độc địa", tính cách bà là một tính cách "xảo quyệt và tuyệt đối" (cái thứ tuyệt đối đặc trưng cho con người của lý trí trừu tượng), thói làm điệu làm bộ của bà thì được mô tả là "sâu sắc". Nhân tiện cũng nói thêm rằng: trong tiểu thuyết của Eugène Sue, đường đời của bá tước phu nhân, cũng như của phần lớn nhân vật khác, đều được mô tả một cách ngu xuẩn. Một người vú già đã làm cho bà bá tước phu nhân tin rằng về sau mình sẽ đội "mũ miện". Ám ảnh bởi lòng tin đó nên bà ta đi du hành định kiếm chiếc mũ miện bằng một cuộc hôn nhân. Rút cục, bà ta tỏ ra là không triệt để đến nỗi nhầm một "công tước" nhỏ bé của nước Đức là một "nhân vật đội mũ miện"."Đối với cách lý giải vấn đề như thế" (nghĩa là đối với quan điểm của ông Szeliga) "thì việc Eugène Sue mô tả một buổi khiêu vũ để đưa chúng ta vào xã hội thượng lưu không phải là điều không quan hệ gì và về phương diện đó" (về phương diện kết cấu của ông Szeliga) "thì việc đó cũng không phải là hoàn toàn ngẫu nhiên"
Thế là nhà phê phán của chúng ta thả lỏng dây cương cho con ngựa cái phi bừa qua cả một chuỗi những sự chứng minh tính tất nhiên đó theo tinh thần của lão già Wolff đã chầu trời."Khiêu vũ là biểu hiện phổ biến nhất của tình dục, về mặt là cái bí mật. Trong khiêu vũ, được phép trực tiếp đụng chạm, ôm ấp nhau giữa nam nữ (?) "do việc xếp thành đôi mà có, vì khiêu vũ nhìn bên ngoài thì có cảm giác thích thú và trên thực tế" ("trên thực tế"?, ngài mục sư!) "cũng vậy, song rút cục vẫn không bị coi là sự đụng chạm và ôm ấp có tính chất tình dục" (chắc hẳn là sự đụng chạm và ôm ấp có tính chất lý tính phổ biến?)
Và cuối cùng là một kết luận mà ta có thể nói là nó chồm lên đúng hơn là nói nó khiêu vũ:"Vì nếu người ta thực sự coi khiêu vũ là sự đụng chạm và sự ôm ấp mang tính chất tình dục thì người ta sẽ không hiểu được tại sao xã hội lại chỉ rộng lượng đối với khiêu vũ trong khi ngược lại nó lên án gay gắt tất cả những hiện tượng tương tự nếu những hiện tượng này biểu hiện ra bừa bãi như thế ở một nơi khác, và trừng phạt những tội phạm đó coi là những sự vi phạm không thể tha thứ được đến đạo đức và phong hoá, bằng cách chỉ trích và bài xích một cách không thương xót"
Ngài mục sư không nói về điệu nhảy cancan và điệu nhảy polka: ông nói về "khiêu vũ" nói chung, về phạm trù khiêu vũ là một phạm trù chỉ được nhảy múa dưới cái xương sọ phê phán của ngài mục sư thôi. Nếu ông ta có dịp đi xem khiêu vũ tại tiệm "Chaumière" ở Paris thì tâm hồn Đức-Cơ đốc của ông ta sẽ bị kích động mạnh bởi sự xấc xược, sự lộ liễu, sự phóng đãng, bởi cái điệu nhạc gợi tình. Cái "cảm giác êm dịu có thể thu được trên thực tế" của chính ông sẽ đem lại cho ông khả năng "cảm thấy" rằng "quả thật, không thể hiểu tại sao bản thân những người khiêu vũ, trong khi trái lại" họ gây cho khán giả cái ấn tượng sảng khoái khêu gợi tình dục lộ liễu của con người ("điều này nếu biểu hiện ra cũng theo phương thức đó ở một nơi khác" tức ở Đức, "sẽ kéo theo nó, như một sự phá hoại không thể tha thứ được", v.v. và v.v.) - tại sao bản thân những người khiêu vũ không nên và không dám - ít ra là có thể nói như vậy - tự coi là những người có tình dục lộ liễu, khi họ không những có thể mà tất nhiên phải là những người như vậy!!"Thực ra, bí mật của âm điệu và tiết tấu xã giao, bí mật của sự việc hết sức trái tự nhiên đó, là lòng khao khát trở về với tự nhiên. Vì thế mà tình hình ấy, giống như Cecily, đã gây ra trong xã hội có giáo dục một ấn tượng giống như điện giật và đưa tới những thành tựu không bình thường. Đối với nàng, một nữ tỳ lớn lên giữa đám nô lệ không được sự giáo dục và hoàn toàn chỉ chịu sự chi phối của bản tính thì bản tính đó là nguồn sống duy nhất. Đột nhiên được tiến cử vào nơi cung điện, phải khép mình theo phong tục tập quán nơi này, nàng thâm nhập nhanh chóng vào bí mật của phong tục tập quán này. Trong hoàn cảnh ấy, hoàn cảnh mà nàng hoàn toàn đủ sức chi phối được, vì lực lượng của mình, lực lượng của bản tính của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh như một ma lực khó hiểu, Cecily không tránh khỏi rơi vào con đường lầm lạc và đâm ra bừa bãi, thế mà trước đây khi nàng còn là nô tỳ, cũng chính cái bản tính đó đã dạy cho nàng cự tuyệt mọi đòi hỏi xấu xa của tên chủ của nàng và trước sau trung thành với tình yêu của mình, Cecily là cái bí mật đã bị bóc trần của xã hội có giáo dục. Tình cảm bị ức chế cuối cùng đã tức nước vỡ bờ và tự do hoành hành không gì chế ngự nổi", v.v.
Dĩ nhiên bạn đọc nào đọc Szeliga mà chưa xem cuốn tiểu thuyết của Eugène Sue thì tưởng rằng Cecily là cô gái đẹp mê người trong buổi khiêu vũ này. Nhưng trong cuốn tiểu thuyết, khi người ta đang khiêu vũ ở Paris, nàng lại ngồi trong nhà tù ở Đức."Cecily là hiện thân của cái tình dục mãnh liệt chỉ bùng cháy dưới cái nóng của vùng nhiệt đới... Ai nấy đều nghe nói về những cô gái da màu có thể nói là nguy hiểm chết người đối với người Âu, những con quỷ hút máu mê người đó đã làm cho những vật hy sinh của chúng say sưa trước sự quyến rũ kinh khủng... và, giống như câu tục ngữ kiên quyết của địa phương, chúng chỉ để cho họ uống nước mắt họ khi khát và gặm trái tim họ khi đói"
Nhưng Cecily không hề có cái ma lực đó đối với những người no nê được hưởng giáo dục quý tộc..."Hạng đàn bà như Cecily thường gây ra một ảnh hưởng bất ngờ, một ma lực không sao cưỡng được đối với những đại biểu của tình dục thô bạo như Jacques Ferrand"
Loại người như Jacques Ferrand đại diện cho xã hội thượng lưu từ bao giờ nhỉ? Song sự phê phán có tính phê phán cần xây dựng Cecily thành một vòng khâu trong quá trình sống của cái bí mật tuyệt đối.4. "BÍ MẬT CỦA SỰ NGAY THẲNG VÀ SỰ THÀNH KÍNH"
"Bí mật, với tính cách là bí mật của xã hội có giáo dục, cố nhiên là lẩn trốn từ lĩnh vực đối lập vào lĩnh vực bên trong. Tuy nhiên xã hội thượng lưu lại còn có những tập đoàn đặc biệt mà nó giao cho giữ gìn điện thánh của mình. Xã hội thượng lưu dường như là từ đường nhỏ cho cái chí thánh đó. Nhưng đối với những người còn ở ngưỡng cửa thì bản thân từ đường nhỏ là cái bí mật. Như vậy, trong địa vị đặc biệt của nó, đối với nhân dân, sự giáo dục là như thế nào... thì đối với những người có giáo dục, sự thô bạo cũng như thế ấy"
"Cố nhiên... tuy nhiên... lại còn... dường như... nhưng... như vậy", đấy chính là những cái móc ảo thuật gắn liền các khâu của cái chuỗi tư biện những luận đoán. Trên kia, chúng ta đã thấy ông Szeliga buộc cái Bí mật rời bỏ thế giới tội phạm và lẩn trốn vào trong xã hội thượng lưu như thế nào. Bây giờ ông ta cần cấu tạo ra cái bí mật khác, tức là xã hội thượng lưu có những tập đoàn đặc biệt của mình và những bí mật của những tập đoàn đó là những bí mật đối với nhân dân. Để cấu tạo được như vậy thì ngoài những chiếc móc ảo thuật nói trên, còn phải biến tập đoàn thành từ đường nhỏ và biến thế giới không quý phái thành ngưỡng cửa của từ đường nhỏ đó. Và cái bí mật đối với Paris là ở chỗ tất cả các lĩnh vực của xã hội tư sản chỉ hình thành nên cái ngưỡng cửa của từ đường nhỏ của xã hội thượng lưu."Sự giáo dục còn chưa thể và không muốn lôi kéo tất cả các đẳng cấp và tất cả những sự khác biệt vào trong lĩnh vực của mình. Chỉ có đạo Cơ đốc và đạo đức mới có thể xây dựng, trên thế giới này, những vương quốc phổ biến"
Đối với ông Szeliga, sự giáo dục, văn minh là đồng nghĩa với sự giáo dục quý tộc. Vì thế ông ta không thể thấy rằng công nghiệp và thương nghiệp đang xây dựng những vương quốc phổ biến khác hẳn với vương quốc của đạo Cơ đốc và đạo đức, với hạnh phúc gia đình và phúc lợi tiểu thị dân. Nhưng chúng ta đi tới viên công chứng Jacques Ferrand như thế nào? Rất đơn giản thôi."Vai trò của viên công chứng đối với việc đời cũng giống như vai trò của thầy tu đối với việc đạo, họ đều là kẻ giữ gìn bí mật của chúng ta" (Monteil, "Lịch sử các đẳng cấp ở Pháp", ch.IV, tr.375)
Viên công chứng là linh mục trần tục. Theo nghề nghiệp, ông ta là tín đồ thanh giáo. Nhưng Shakespeare nói rằng "sự thành thực không phải là kẻ theo thanh giáo"6. Ông ta đồng thời là kẻ trung gian cho bất cứ mục đích gì và là kẻ chủ mưu gây ra những mưu mô, mánh khoé thị dân."Nếu như sự giả nhân giả nghĩa ở viên công chứng là hoàn toàn có ý thức còn ở bà Roland là một cái gì giống như bản năng thì giữa họ, là đông đảo những người không thể thâm nhập vào bí mật nhưng vẫn vô tình tìm cách đạt tới chỗ đó. Và không phải sự mê tín đưa giới thượng lưu và đám hạ lưu của thế giới này vào trong ngôi nhà âm u của tên lang vườn Bradamanli (linh mục Polidori). Không, việc tìm kiếm cái bí mật để chứng minh với thế giới rằng mình vô tội đưa họ vào đó"
"Giới thượng lưu" và "đám hạ lưu" đổ xô đến nhà Polidori không phải là để có được một bí mật có thể chứng minh trước toàn thế giới rằng họ vô tội. Không, "giới thượng lưu" và "đám hạ lưu" tìm kiếm ở Polidori "cái bí mật nói chung", cái Bí mật coi là chủ thể tuyệt đối để chứng minh trước thế giới rằng mình vô tội. Điều đó giống như chúng ta không tìm chiếc rìu mà tìm "công cụ nói chung", công cụ in abstracto3* để bổ củi bằng sự trừu tượng ấy.5. "CÁI BÍ MẬT - GIỄU CỢT"
Bây giờ, "cái Bí mật đã trở thành tài sản chung, trở thành cái bí mật của toàn thế giới và của mỗi người riêng biệt. Hoặc đó là nghệ thuật của tôi hay bản năng của tôi, hoặc tôi có thể mua nó trên thị trường như một thứ hàng hoá nào đó"
Cái bí mật nào hiện nay trở thành tài sản chung của toàn thế giới? Cái bí mật của tình trạng không có pháp luật trong nhà nước ư? cái bí mật của xã hội có giáo dục ư? cái bí mật của việc làm hàng giả ư? cái bí mật của việc chế tạo nước hoa ư? hay là cái bí mật của "sự phê phán có tính phê phán"? Không phải ! đây là cái bí mật nói chung, cái bí mật in abstracto, là phạm trù bí mật!"do đó cũng tuyệt đối không còn là cái bị che giấu và không thể hiểu được, mà là cái tự che giấu mình, hoặc nói đúng hơn" (thật là ngày càng đúng!) "là cái mà tôi che giấu, cái mà tôi làm cho không sao hiểu được"
Với sự chuyển hoá như vậy của cái bí mật tuyệt đối từ bản chất sang khái niệm, từ giai đoạn khách thể trong đó nó là cái bị che giấu sang giai đoạn chủ thể trong đó nó tự che giấu mình, hay nói đúng hơn trong đó "tôi" che giấu "nó", chúng ta chưa tiến thêm được bước nào. Trái lại, khó khăn hình như tăng lên, vì cái í mật trong đầu óc và trong lòng người còn khó hiểu và kín mít hơn là cái bí mật của đáy biển. Chính vì vậy mà Szeliga lập tức đưa ra một luận đoán kinh nghiệm để cứu vãn luận đoán tư biện của mình."Từ nay" (từ nay !) "sau những cái cửa đóng" (xin chú ý! xin chú ý!) "sẽ thai nghén, dấy lên và hình thành cái Bí mật"
"Từ nay", ông Szeliga biến cái "tôi" tư biện của cái bí mật thành một hiện thực hoàn toàn kinh nghiệm thuần tuý bằng gỗ - tức là thành cái cửa."Nhưng do đó" (nghĩa là cùng với sự tồn tại của cái cửa đóng chứ không phải cùng với sự chuyển hoá từ một bản chất đóng kín sang khái niệm thuần tuý) "cũng cho khả năng nghe trộm, rình xem, dò xét cái bí mật"
Không phải ông Szeliga đã phát hiện được "cái bí mật" mà người ta có thể nghe trộm sau những chiếc cửa đóng. Tục ngữ dân gian cũng có câu "tai vách mạch rừng". Trái lại, cái bí mật tư biện hoàn toàn có tính phê phán đó là: chỉ "từ nay" tức là sau khi du lịch dưới âm phủ trong sào huyệt của bọn tội phạm, sau khi đi lên thiên đường của xã hội thượng lưu, sau tất cả những phép mầu của Polidori thì những bí mật mới có thể được thai nghén sau những cửa đóng, mới có thể bị người ta tựa vào những cửa đóng mà nghe trộm. Một điều bí mật phê phán cũng lớn lao như thế là những chiếc cửa đóng không những tuyệt đối cần thiết cho việc thai nghén, dấy lên và hình thành những bí mật (và biết bao nhiêu cái bí mật đang được thai nghén, dấy lên và hình thành sau những bụi cây!) mà cả cho việc dò xét những bí mật đó."Mỗi người đều muốn tốt hơn người khác, vì anh ta không những giữ kín động cơ làm việc thiện của mình mà còn tìm cách che giấu việc ác của mình bằng một màn sương mù hoàn toàn không nhìn qua được"
Phải đảo ngược câu đó, mới đúng: Mỗi người đều không những giữ kín động cơ làm việc thiện của mình mà còn tìm cách che giấu việc ác của mình bằng một màn sương mù hoàn toàn không nhìn qua được vì anh ta muốn tốt hơn người khác."Về mặt này, những người đầy tớ chiếm một vị trí có lợi nhất"
Nếu như ông Szeliga đã đọc những hồ sơ trong kho lưu trữ của sở cảnh sát Paris, những hồ sơ của Vidocq, "Sách đen" của nước Pháp, v.v., ông sẽ biết rằng về mặt này, cảnh sát còn chiếm "vị trí có lợi hơn" là những người đầy tớ ở trong "một vị trí có lợi nhất", rằng những người đầy tớ chỉ được cảnh sát sử dụng vào những việc giản đơn nhất, còn cảnh sát thì không dừng lại trước cửa, và không chỉ có mặt khi chủ nhân đang cởi quần áo, mà thậm chí còn chui vào tận trong chăn bên cạnh thân thể trần truồng của chủ nhân theo kiểu femme galante hoặc thậm chí với tư cách là vợ của chủ nhân nữa. Và trong truyện của Eugène Sue, tên mật thám "Tay đỏ" là một trong những vai chính của câu chuyện."Trái lại, hoàn cảnh của người gác cổng đảm bảo cho anh ta một sự độc lập tương đối khiến anh ta có thể biến bí mật ở trong nhà thành đối tượng của sự chế giễu tự do không vụ lợi tuy khắc nghiệt và chua cay"
Cái kết cấu tư biện về người gác cổng vấp phải một khó khăn lớn thứ nhất là trong phần lớn các nhà ở Paris, ít ra là đối với một bộ phận người thuê nhà thì người gác cổng và người đầy tớ chỉ là một thôi."Chồng mụ, anh chàng gác cổng Alfred Pipelet, cùng làm một nghề với mụ nhưng không gặp may bằng"
Để an ủi sự thất bại đó của anh ta, ông Szeliga cũng biến anh ta thành một tỉ dụ ám chỉ. Anh ta đại biểu cho mặt "khách quan" của cái bí mật, đại biểu cho "cái bí mật với tính cách là sự chế giễu"."Cái bí mật làm cho anh ta thất bại là sự chế giễu, sự chế nhạo của người khác đối với anh ta"
Ngoài ra, với lòng trắc ẩn vô hạn, phép biện chứng thiêng liêng biến "ông già lẩn thẩn và không may" thành một "người khoẻ mạnh" theo một nghĩa siêu hình của danh từ bằng cách cho rằng ông đóng vai vòng khâu rất đáng kính trọng, rất may mắn và rất có tác dụng quyết định trong quá trình sinh tồn của cái bí mật tuyệt đối. Chiến thắng Pipelet tức là"sự thất bại có tính quyết định nhất của cái bí mật". "Một người khôn ngoan và dũng cảm hơn không mắc lừa sự chế giễu"
6. BỒ CÂU CÁI (RIGOLETTE)
"Còn một việc nữa phải làm. Qua ví dụ về Pipelet và Cabrion, chúng ta thấy rằng theo sự phát triển tuần tự của nó, cái bí mật tất nhiên buộc phải hạ thấp xuống thành một trò hề thuần tuý. Bây giờ, chỉ cần làm cho cá nhân không diễn vở hài kịch ngu xuẩn đó nữa. Bồ câu cái đã làm việc này một cách ngây thơ hết chỗ nói"
Bất cứ ai cũng có thể, trong vòng vài phút, khám phá ngay được bí mật của trò hề tư biện đó và có thể học được cách ứng dụng nó một cách độc lập. Về điểm đó, chúng tôi xin chỉ ra vắn tắt như sau:"Bản thân nàng còn chưa có ý thức về giá trị luân lý cao cả của mình, vì thế nàng hãy còn là cái bí mật đối với chính nàng"
Qua miệng của Murph, Eugène Sue vạch cho chúng ta thấy cái bí mật của Rigolette không tư biện. Nàng là "một cô gái lẳng lơ rất đẹp". Ở nhân vật này Eugène Sue đã miêu tả tính cách dễ mến, có nhân tính của một người con gái lãng mạn ở Paris. Nhưng lại do sùng bái giai cấp tư sản và do tính chuộng khoa trương đặc biệt của ông, nên đã phải lý tưởng hoá người con gái lãng mạn về mặt đạo đức. Ông đã phải gọt tròn những góc cạnh của đời sống và tính tình của Rigolette: khinh thường hình thức chính thức của hôn nhân, giao thiệp ngây thơ với người sinh viên hay người công nhân. Chính trong khuôn khổ của những quan hệ đó mà nàng hình thành một sự trái ngược thật sự có tính người với mụ vợ giả dối, lạnh nhạt và ích kỷ của anh tư sản, và với tất cả các giới tư sản, nghĩa là với tất cả xã hội quan phương.7. "TRẬT TỰ THẾ GIỚI" CỦA "NHỮNG BÍ MẬT CỦA THÀNH PARIS"
Thế giới những bí mật đó cũng chính là trật tự thế giới phổ biến trong đó diễn ra những hoạt động cá nhân của "Những bí mật của thành Paris"
"Nhưng" trước khi "... chuyển sang bàn về sự tái hiện về mặt triết học của sự kiện có tính anh hùng ca", ông Szeliga còn phải "tập hợp những nét vẽ riêng biệt phác họa trên kia thành một bức tranh hoàn chỉnh"."Từ sự trình bày của chúng tôi, có thể rút ra kết luận rằng những bí mật riêng lẻ nghiên cứu trên kia nếu tách riêng từng cái một thì không có giá trị và những bí mật đó cũng không phải là những câu chuyện dông dài hay tuyệt. Giá trị của chúng chính là ở chỗ bản thân chúng hình thành tính nhất quán hữu cơ của những khâu mà gộp cả lại thành ra cái bí mật"
Do tính khí thẳng thắn, ông Szeliga còn đi xa hơn nữa. Ông ta có ý thức rằng"tính nhất quán tư biện" không phải là tính nhất quán thực sự của "Những bí mật của thành Paris"."Đúng là trong bản anh hùng ca của chúng ta, những cái bí mật không biểu hiện ở tính nhất quán tự hiểu mình ấy" (theo giá thành ư?). "Nhưng vấn đề ta gặp phải ở đây không phải là cơ thể logic, tự do và cơ sở trước mắt mọi người của sự phê phán mà là một tồn tại thực vật thần bí"
Chúng ta không nghiên cứu bức tranh hoàn chỉnh của ông Szeliga mà trực tiếp đi vào cái điểm hình thành sự "chuyển tiếp". Qua ví dụ về Pipelet, chúng ta đã quen biết "sự tự châm biếm của cái bí mật""Bản thân cái bí mật xét xử mình bằng sự tự châm biếm. Tự tiêu diệt khi kết thúc sự phát triển của mình, cái bí mật, do đó, thúc đẩy mọi người kiên cường tiến hành kiểm tra độc lập"
Rudolph, ông hoàng Geroldstein, vĩ nhân của "sự phê phán thuần túy", mang sứ mệnh tiến hành việc kiểm tra ấy và "bóc trần những bí mật".1* người đàn bà lẳng lơ
2* căn nhà nhỏ làm nơi hẹn hò
3* trừu tượng
4* người gác cổng
5* chủ cửa hiệu nhỏ
6* người coi nhà
1 Molière, "Trưởng giả học làm sang", hồi II, cảnh 6.
2 Chỉ Hiến chương lập hiến (Charte constitutionnelle) được thông qua sau cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1830, nó là đạo luật căn bản của nền quân chủ tháng Bảy. "Hiến chương chân lý" là lời châm biếm ám chỉ câu kết thúc bản tuyên ngôn ngày 31 tháng Bảy 1830 của Louis Philippe: "từ nay hiến chương tức là chân lý".
3 Marx dịch nghĩa hai câu trong vở kịch của Goethe "Faust" hồi I, cảnh 6 ("Nhà bếp của mụ phù thuỷ").
4 Trích dẫn trong tác phẩm của C. Fourier, "Học thuyết về sự thống nhất của thế giới" ("Théorie de l'unité universelle"), ch.3, thiên II, tập III. Quyển sách này xuất bản lần đầu tiên vào năm 1882 với nhan đề "Traité de l'association domestique-agricole" ("Bàn về hội liên hiệp gia đình - nông nghiệp").
5 A.A. Monteil, "Histoire des français des divers etats aus cinq derniers siècles". T. I-X, Paris, 1828 - 1844. (A.A. Monteil, "Lịch sử các đẳng cấp ở Pháp năm thế kỷ vừa qua", Paris, 1828-1844, tập I-X).
6 Shakespeare, "Cái gì kết thúc tốt đẹp đều tốt đẹp" (All's Well That Ends Well), hồi I, cảnh 3.
7 Polydori Vergilü liber de rerum inventoribus. Lugduni, 1706.
8 Froment. "La Police dévoilée depuis la Restauration et notamment sous M.M.Franchet et Delavau". T.I-III, Paris, 1829 (Froment. "Cảnh sát bị lộ mặt từ thời kỳ Phục tích và nhất là dưới thời các ông Franchet và Delavau", Paris, 1829, tập I-III).