F. Engels
Nguồn gốc của gia đình
LỜI TỰA VIẾT CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT NĂM 1884
Những chương sách sau đây, theo một nghĩa nào
đó, được viết ra để thực hiện một di chúc. Chính Karl Marx, chứ không phải ai
khác, đã định trình bày những kết quả của các công trình nghiên cứu của Morgan,
dưới ánh sáng của các kết luận của mình - trong chừng mực nào đó, có thể nói là
của hai chúng tôi - khi nghiên cứu lịch sử theo quan điểm duy vật, qua đó làm
rõ tất cả tầm quan trọng của chúng. Là vì Morgan, ở châu Mĩ và theo cách của
mình, đã phát hiện lại quan điểm duy vật về lịch sử mà Marx đã phát hiện ra
cách đây bốn mươi năm; và khi so sánh thời đại dã man với thời đại văn minh,
ông đã đi đến những kết luận về cơ bản là giống như Marx. Cũng như các kinh tế
gia nhà nghề ở Đức bao năm qua đã bận rộn sao chép bộ “Tư bản”, đồng thời ngoan
cố dìm nó xuống; các đại biểu của khoa học “tiền sử” ở Anh đã đối xử với cuốn
“Xã hội Cổ đại”1* của Morgan y như vậy. Cuốn sách
này của tôi chỉ là sự thay thế yếu ớt cho công trình mà người bạn quá cố của
tôi đã không kịp hoàn thành. Nhưng tôi đã có được những nhận xét phê bình, ghi
đại ý những đoạn trích mà ông lấy từ cuốn sách của Morgan; và tới lúc thích
hợp, sẽ dùng lại những nhận xét ấy.
Theo quan điểm duy vật, thì nhân tố quyết định
trong lịch sử - xét đến cùng - là sản xuất và tái sản xuất ra những nhân tố cần
nhất cho đời sống. Bản thân sự sản xuất ấy lại có hai mặt. Một mặt là sản xuất
tư liệu sinh hoạt: thức ăn, quần áo, nhà cửa, và những công cụ để sản xuất
những thứ đó; mặt khác là sản xuất ra chính con người, để duy trì nòi giống. Tổ
chức của xã hội loài người - ở một thời đại lịch sử cụ thể và ở một quốc gia cụ
thể - là do hai loại sản xuất đó qui định: một mặt là trình độ phát triển của
lao động, mặt khác là trình độ phát triển của gia đình.
Lao động càng kém phát triển, lượng sản phẩm của
lao động (cũng như lượng của cải trong xã hội) càng bị hạn chế; thì quan hệ
huyết tộc càng chi phối trật tự xã hội. Nhưng chính trong cái kết cấu xã hội
dựa trên quan hệ huyết tộc đó, năng suất lao động ngày càng phát triển; tư hữu
và trao đổi, chênh lệch giàu nghèo, khả năng sử dụng sức lao động của người
khác, và do đó cơ sở của mâu thuẫn giai cấp cũng ngày càng phát triển: các yếu
tố xã hội mới - qua nhiều thế hệ - ra sức làm cho trật tự xã hội cũ thích ứng
với điều kiện mới, đến khi giữa chúng không thể có sự thích ứng nữa, và đưa đến
một cuộc cách mạng hoàn toàn.
Xã hội cũ, dựa trên quan hệ huyết tộc, đã tan vỡ
trong cuộc đấu tranh giữa các giai cấp mới hình thành; một xã hội mới thay thế
nó; trong đó, quyền lực xã hội được tập trung vào tay Nhà nước, những đơn vị
trực thuộc của Nhà nước không còn là đoàn thể huyết tộc, mà là đoàn thể địa
phương; trong đó, chế độ sở hữu đã hoàn toàn chi phối gia đình; trong đó, mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp - cái làm nên nội dung chính của toàn bộ
lịch sử thành văn - đều được tự do
phát triển.
Công lao lớn của Morgan là đã phát hiện và khôi
phục - trên những nét lớn - cái cơ sở tiền sử đó của lịch sử thành văn của
chúng ta; và từ quan hệ huyết tộc của người Indian Bắc Mĩ, ông đã tìm thấy chìa
khóa để giải quyết những vấn đề quan trọng nhất - đến nay vẫn còn là bí ẩn -
của lịch sử Hi Lạp, La Mã và Germania cổ đại. Cuốn sách của ông không phải chỉ
một ngày là xong. Gần bốn mươi năm qua, ông đánh vật với các tài liệu, đến khi
hoàn toàn nắm được vấn đề. Nhưng chính điều đó làm cho cuốn sách ấy trở thành
một trong rất ít các tác phẩm vạch thời đại ở thời chúng ta.
Ở bản trình bày sau đây, bạn đọc nói chung sẽ
phân biệt dễ dàng: phần nào được lấy từ cuốn sách của Morgan, phần nào do tôi thêm vào. Trong
các phần về Hi Lạp và La Mã, không chỉ giới hạn trong các cứ liệu của ông, tôi
còn thêm vào những gì mình biết. Các phần về người Celt và người Germania chủ
yếu là của tôi; ở đây Morgan hầu như chỉ có những tài liệu thứ sinh; về người
Germania, ngoài Tacitus ra thì ông chỉ có những tài liệu vô dụng, đã bị xuyên
tạc theo kiểu tự do chủ nghĩa của ông Freeman thôi. Những nghiên cứu về kinh tế
của Morgan là đủ so với mục đích của ông, nhưng lại là rất thiếu so với mục
đích của tôi, nên tôi viết lại cả. Sau cùng, với những kết luận mà tôi không trực tiếp dẫn chứng của Morgan, thì đương nhiên là
tôi chịu trách nhiệm cả.
LỜI TỰA VIẾT CHO LẦN XUẤT BẢN THỨ TƯ BẰNG TIẾNG ĐỨC NĂM 1891
VỀ LỊCH SỬ GIA ĐÌNH NGUYÊN THỦY (BACHOFEN, MCLENNAN, MORGAN)1
Các bản trước đây của cuốn sách này, được in với
số lượng lớn, cũng đã bán hết từ gần nửa năm nay; nhà xuất bản đã vài lần đề
nghị tôi chuẩn bị cho lần xuất bản mới, nhưng tôi phải làm nhiều việc cấp bách
hơn. Bảy năm đã qua từ khi bản đầu tiên xuất hiện; từ đó đến nay, hiểu biết của
chúng ta về các hình thức nguyên thủy của gia đình đã có những tiến bộ quan
trọng. Do đó cần phải bổ sung và thay đổi khá nhiều; nhất là tôi sẽ không thể
sửa sang gì nữa trong một thời gian, vì theo dự kiến, các trang sách sẽ được
đúc khuôn.
Tôi đã xem kĩ toàn bộ văn bản và bổ sung rất
nhiều, hi vọng rằng chúng sẽ tương ứng với thực tế hiểu biết hiện nay. Ở lời tựa này, tôi cũng tóm tắt sự phát triển của
các quan điểm về lịch sử gia đình, từ Bachofen đến Morgan; đó là vì các nhà
nhân loại học Chauvin chủ nghĩa người Anh vẫn ngoan cố dìm đi cuộc cách mạng -
mà những phát hiện của Morgan đã tạo ra - trong quan điểm của chúng ta về lịch
sử nguyên thủy, trong khi họ vẫn tước đoạt những thành tựu của Morgan mà không
hề e ngại. Ở vài nước khác, tấm gương của nước Anh đã được noi theo một cách
quá đáng.
Cuốn sách của tôi đã được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Trước hết là tiếng Ý:
L’origine delta famiglia, delta proprieta privata e dello stato; version
riveduta dall’ autore, di Pasquale Martignetti, Benevento, 1885. Tiếng Rumani: Origina famdei,
proprietatei private si a stalului; traducere de Joan Nadejde; in trong tạp chí
Contemporanul ở Iaşi,
từ tháng Chín 1885 tới tháng Năm 1886. Tiếng
Đan Mạch: Familjens, Privatejendommens og Statens Oprindelse; Dansk, af
Forfattern gennemgaaet Udgave; besorget af Gerson Trier, København, 1888. Một
bản dịch tiếng Pháp của Henri Ravé, dựa trên bản này, đã được đăng báo.
Cho tới đầu những năm 60, người ta vẫn chưa nói được gì về lịch sử gia đình. Về mặt
này, sử học hồi đó vẫn hoàn toàn chịu ảnh hưởng từ Bộ sách năm quyển của Moses.
Hình thức gia trưởng của gia đình, được miêu tả trong đó tỉ mỉ hơn bất kì chỗ
nào khác, không chỉ được mặc nhiên coi là hình thức cổ nhất, mà còn được đồng
nhất với gia đình tư sản ngày nay - trừ chế độ nhiều vợ; do đó gia đình hình
như không trải qua sự phát triển lịch sử nào cả; nhiều lắm thì người ta cũng
chỉ nhận là ở thời nguyên thủy, có thể có một thời kì quan hệ tính giao bừa
bãi. Thực ra, ngoài gia đình cá thể (một vợ một chồng), còn có cả chế độ nhiều
vợ ở phương Đông và chế độ nhiều chồng ở Ấn Độ và Tây Tạng; nhưng không thể xếp
ba hình thức đó theo thứ tự lịch sử, chúng tồn tại bên cạnh nhau, không có bất
kì liên hệ nào với nhau. Ở một số bộ tộc thời cổ đại,
cũng như vài giống người mông muội vẫn còn tồn tại, huyết tộc được tính theo mẹ
chứ không theo cha; thế nên chỉ mẫu hệ mới được coi là có giá trị; ở nhiều dân
tộc ngày nay, hôn nhân trong nội bộ một số tập đoàn lớn nào đó - hiện chưa được
nghiên cứu đầy đủ - vẫn bị cấm, và tục lệ đó còn ở khắp nơi. Người ta đều biết
những điều đó, những ví dụ mới về chúng vẫn đang được tập hợp lại. Nhưng không
ai lí giải được chúng; trong cuốn “Nghiên cứu lịch sử nguyên thủy của loài
người ...”(1865)2 của E. B. Tylor, chúng bị coi là “những tục lệ kì dị”; giống
như việc cấm dùng đồ sắt chạm vào củi đang cháy, hay những điều vô lí mang tính
tín ngưỡng như vậy, hiện vẫn còn ở một số dân mông muội.
Lịch
sử gia đình chỉ thực sự có từ năm 1861, khi cuốn “Mẫu quyền”3 của Bachofen ra đời; trong đó
tác giả đưa ra các luận điểm sau: 1) Lúc đầu loài người sống trong tình trạng quan hệ
tính giao bừa bãi, mà Bachofen gọi nhầm là “tạp hôn”; 2) Tình trạng đó làm cho việc xác định cha đẻ là
không thể, nên huyết tộc chỉ có thể tính theo nữ hệ; 3) Vì thế, những người đàn bà, với tư cách là mẹ -
người duy nhất chắc chắn đã sinh ra thế hệ trẻ, đã rất được tôn kính; và theo
Bachofen thì nó đạt đến mức trở thành sự thống trị của nữ giới; 4) Việc chuyển sang chế độ
hôn nhân cá thể, trong đó người đàn bà chỉ thuộc về
một người đàn ông, đã bao
hàm sự vi phạm những điều luật tôn giáo nguyên thủy, mà thực tế là vi phạm cái
quyền cổ truyền của những người đàn ông khác đối với người đàn bà đó; và để đền
tội hoặc chuộc tội, người đàn bà phải hiến thân cho nhiều người khác trong một
thời kì nhất định.
Bachofen
tìm thấy bằng chứng cho các luận điểm đó trong vô số đoạn trích từ văn học cổ
đại, mà ông đã tập hợp rất công phu. Theo ông, sự phát triển từ “chế độ tạp
hôn” lên chế độ hôn nhân cá thể, và từ chế độ mẫu quyền đến chế độ phụ quyền -
đặc biệt ở người Hi Lạp - là kết quả của sự tiến bộ trong các quan điểm tôn
giáo, của việc đưa các thần mới (đại diện cho quan điểm mới) vào hệ thống các
thần cũ (đại diện cho quan điểm cũ), và ngày càng đẩy các quan niệm cũ phía
sau. Vậy, theo Bachofen thì không phải sự phát triển của những điều kiện sinh
hoạt hiện thực của con người, mà chính sự phản ánh có tính tôn giáo của những
điều kiện ấy vào trong đầu óc con người, đã gây ra những biến đổi lịch sử trong
địa vị xã hội giữa hai giới. Phù hợp với quan điểm nói trên, Bachofen đã giải
thích vở “Oresteia” của Aeschylus là sự diễn đạt bằng kịch, cuộc đấu tranh giữa
chế độ mẫu quyền đang suy tàn với chế độ phụ quyền mới xuất hiện và đang thắng
thế, trong thời đại anh hùng.
Vì
gã nhân tình Aegisthus mà Clytemnestra đã giết chồng mình, Agamemnon, vừa trở
về từ cuộc chiến thành Troia. Orestes, con trai của hai người, đã giết mẹ để
trả thù cho cha; vì vậy mà bị các Nữ thần Báo thù (bảo vệ chế độ mẫu quyền)
truy tố, theo họ thì giết mẹ là tội nặng nhất. Nhưng Apollo, vị thần đã dùng
lời sấm để lệnh cho Orestes làm việc đó - và Athena, nữ thần được mời xét xử
(hai vị thần này đại diện cho chế độ phụ quyền) - lại bênh vực Orestes. Athena
lắng nghe hai bên. Toàn bộ bất đồng được tóm lại trong cuộc tranh cãi giữa
Orestes và các Nữ thần Báo thù. Orestes nói là Clytemnestra phạm hai tội liền:
giết chồng mình và giết cha của y. Vậy vì sao các Nữ thần Báo thù lại truy tố y
mà không phải Clytemnestra, là kẻ phạm tội nặng hơn? Câu trả lời thật rõ ràng:
“Nàng không có quan hệ huyết
tộc gì với kẻ bị nàng giết”
Giết một kẻ không cùng huyết
tộc - kể cả nếu đó là chồng mình - thì tội đó vẫn có thể chuộc lại, nó không
can hệ gì tới các Nữ thần Báo thù, việc của họ chỉ là trừng phạt tội giết người
cùng huyết tộc; mà trong loại tội đó thì giết mẹ, theo chế độ mẫu quyền, là
nặng nhất. Apollo bào chữa cho Orestes; và Athena mời Pháp viện Tối cao, chính
là các thẩm phán thành Athens, biểu quyết. Số phiếu tha bổng và kết tội bằng
nhau; Athena, với tư cách chánh án, đã biểu quyết cho Orestes và tha bổng y.
Chế độ phụ quyền đã thắng chế độ mẫu quyền, “các thần của thế hệ trẻ” - như các
Nữ thần Báo thù vẫn gọi - đã thắng các Nữ thần ấy; cuối cùng họ đã đồng ý đảm
nhiệm một chức vụ mới, để phục vụ trật tự mới.
Lời
giải thích vở “Oresteia” như vậy, mới mẻ và hoàn toàn đúng, là một đoạn hay
nhất trong cả cuốn “Mẫu quyền”; nhưng nó cũng chứng tỏ Bachofen ít nhất cũng
tin vào các thần đó như Aeschylus đã tin lúc còn sống; ông tin rằng việc chế độ
phụ quyền lật đổ chế độ mẫu quyền - tại Hi Lạp, vào thời đại anh hùng - là một
kì tích của các thần ấy. Quan điểm coi tôn giáo là đòn bẩy của lịch sử thế giới
như vậy, ắt phải dẫn tới chủ nghĩa thần bí thuần túy. Vì thế, đọc hết cuốn sách
dày của Bachofen là một việc thật sự vất vả, mà thường không bổ ích mấy. Nhưng
những cái đó vẫn không làm giảm tầm quan trọng của ông, với tư cách người tiên
phong. Bachofen
là người đầu tiên đã thay những câu nói suông mập mờ về tình trạng quan hệ tính
giao bừa bãi thời nguyên thủy - mà không ai biết rõ nó - bằng các chứng cớ cho
những sự kiện sau: rất nhiều dấu vết vẫn còn tồn tại trong văn học cổ đại, ở Hi
Lạp và châu Á, về một trạng thái trước khi có gia đình cá thể, thời mà một người đàn ông có quan hệ tính
giao với nhiều người đàn bà, và một người đàn bà cũng có quan hệ tính giao với
nhiều người đàn ông, mà không hề trái với đạo đức; tục lệ ấy, khi đã mất đi
rồi, vẫn để lại dấu vết trong việc người đàn bà buộc phải hiến thân cho những
người đàn ông khác trong một thời kì nhất định, để có được quyền kết hôn cá
thể; vì tục lệ đó, ban đầu huyết tộc chỉ có thể tính theo nữ hệ, từ người mẹ
này đến người mẹ khác; nó còn được duy trì rất lâu sau khi có chế độ hôn nhân
cá thể, khi mà tư cách cha đẻ đã được xác lập (hay ít ra là thừa nhận); cái địa
vị ban đầu đó của các bà mẹ, với tư cách là bậc thân sinh duy nhất xác định của
những đứa trẻ, đã đảm bảo cho họ - và toàn bộ nữ giới thời đó - một vị trí xã
hội rất cao, mà kể từ đó trở đi họ không bao giờ có được nữa. Bachofen thực ra không nêu
lên các luận điểm đó một cách rõ ràng như vậy, vì bị thế giới quan thần bí của
mình cản trở. Nhưng ông đã chứng minh được chúng; và ở năm 1861 thì đó quả là
một cuộc cách mạng.
Cuốn
sách dày của Bachofen được viết bằng tiếng Đức, thứ tiếng của một dân tộc ít
quan tâm nhất đến tiền sử của gia đình hiện đại. Vì thế, ông không được biết
tới. Người kế tục trực tiếp Bachofen, xuất hiện năm 1865, cũng chưa từng nghe
nói về ông.
Đó
là J. F. McLennan, người đối lập hoàn toàn với Bachofen. Thay cho một nhà thần
bí thiên tài, là một luật gia khô khan; thay cho trí tưởng tượng dồi dào của
một thi sĩ, là những lí lẽ khôn khéo của một luật sư bào chữa. McLennan
thấy ở nhiều dân tộc mông muội, dã man và cả văn minh, ở cả thời cổ đại và hiện
đại, có một hình thức kết hôn; trong đó chú rể, một mình hay cùng bạn bè, phải
giả vờ cướp lấy cô dâu từ tay những người họ hàng của cô ta. Tục lệ này hẳn là
dấu vết của một tục lệ xa xưa, khi mà đàn ông trong một bộ lạc thực sự phải đi
cướp đàn bà của bộ lạc khác về làm vợ. Cái “hôn nhân cướp đoạt” này có nguồn
gốc là gì? Chừng
nào mà đàn ông trong bộ lạc đều có thể kiếm được vợ, thì không có lí do gì để
làm thế. Nhưng chúng ta cũng thường thấy ở các dân ít phát triển, có một số tập
đoàn nhất định (hồi năm 1865, vẫn bị coi nhầm là bộ lạc) cấm kết hôn trong nội
bộ, nên người ta buộc phải dựng vợ gả chồng ở ngoài tập đoàn đó; trong khi một
số tập đoàn khác lại chỉ cho phép kết hôn trong nội bộ. McLennan gọi loại tập
đoàn thứ nhất là “ngoại hôn”, loại thứ hai là “nội hôn”; và lập tức dựng lên
một sự đối lập gay gắt giữa các bộ lạc “ngoại hôn” và “nội hôn”. Và mặc dù
những nghiên cứu về ngoại hôn của mình đã buộc chính ông ta phải đối diện với
sự thật: trong nhiều trường hợp - nếu không phải là hầu hết, thậm chí tất cả
các trường hợp - sự đối lập nói trên chỉ có trong trí tưởng tượng của ông ta;
McLennan vẫn lấy sự đối lập ấy làm cơ sở cho thuyết của mình. Theo thuyết đó, các
bộ lạc ngoại hôn chỉ có thể lấy vợ ở bên ngoài; và trong tình trạng chiến tranh
liên miên, đặc trưng của thời mông muội, thì chỉ có thể lấy vợ bằng cách cướp
đoạt.
McLennan đặt câu hỏi tiếp:
tục ngoại hôn đó do đâu mà có? Quan niệm về huyết tộc và loạn luân không liên
quan gì tới việc này, vì mãi về sau chúng mới có, theo ông. Nhưng có một tục lệ
phổ biến khác ở các dân mông muội: giết những bé gái sơ sinh. Nó dẫn đến việc
thừa đàn ông trong mỗi bộ lạc; hậu quả trực tiếp, tất yếu của việc đó là nhiều
đàn ông phải lấy chung một vợ: đó là chế độ nhiều chồng. Hậu quả tiếp theo là
người ta chỉ biết mẹ chứ không biết cha của đứa bé, vậy là huyết tộc chỉ tính
được theo nữ hệ chứ không phải nam hệ: đó là chế độ mẫu quyền. Hậu quả thứ hai
của việc thiếu đàn bà (chế độ nhiều chồng chỉ có thể giảm bớt nó đi) là việc
thường xuyên cướp đoạt đàn bà của các bộ lạc khác.
“Vì chế độ ngoại hôn và chế
độ nhiều chồng có cùng nguyên nhân: nhu cầu cân bằng hai giới, nên ta buộc phải
cho là: ban đầu, mọi tộc người ngoại hôn đều có chế độ nhiều chồng... Vì thế ta
phải cho là: không cần bàn cãi, hệ thống thân tộc đầu tiên, ở mọi tộc người
ngoại hôn, đều chỉ thừa nhận quan hệ huyết tộc về phía mẹ” (McLennan, “Nghiên cứu Lịch
sử Cổ đại”4, 1876; Hôn nhân nguyên thủy, tr. 124)
Công
lao của McLennan là đã chỉ rõ tính phổ biến và ý nghĩa to lớn của cái mà ông
gọi là chế độ ngoại hôn. Nhưng ông hoàn toàn không
phát hiện ra sự tồn tại của
các tập đoàn ngoại hôn, hay ít ra là không hiểu được nó. Bên cạnh các ý kiến
riêng lẻ của những nhà quan sát trước kia (chính McLennan cũng đã dùng nguồn
tài liệu đó); thì Latham (“Nhân chủng học Mô tả”5, 1859) cũng đã mô tả chi tiết
và chính xác chế độ đó ở người Magar (Ấn Độ), và nói rằng chế độ đó từng rất
phổ biến và có ở khắp thế giới - chính McLennan đã trích dẫn đoạn đó. Ngay từ
năm 1847, Morgan, ở các bức thư về người Iroquois (đăng trên tờ American Review),
và trong cuốn “Liên minh Iroquois”6 (1851), cũng tìm thấy và mô tả chính xác chế
độ ấy ở dân đó; trong khi, như chúng ta sẽ thấy, McLennan - với cái trí óc luật
gia của mình - còn gây ra nhiều lẫn lộn hơn cả Bachofen từng gây ra - với những
ảo tưởng thần bí của ông ta - trong lĩnh vực mẫu quyền. Một công lao khác của
McLennan là đã thừa nhận sự tồn tại trước tiên của chế độ huyết tộc mẫu hệ; tuy
rằng về sau ông đã thừa nhận là mình đi sau Bachofen về điểm đó. Nhưng ở đây
McLennan cũng tỏ ra mơ hồ, ông luôn nói đến “quan hệ huyết tộc chỉ về nữ hệ”
(kinship through females only); thuật ngữ này - đúng với giai đoạn đầu - được
ông dùng cho cả những giai đoạn phát triển sau này, khi mà quan hệ huyết tộc
theo nam hệ cũng được xác định và thừa nhận, dù quan hệ huyết tộc và thừa kế
thực tế vẫn tính theo nữ hệ. Đó là cái trí óc mô phạm của một luật gia: khi đã
tìm ra một thuật ngữ luật học cố định, thì tiếp tục dùng nó mà không thay đổi
gì, dù hoàn cảnh đã thay đổi đến mức không thể dùng nó được nữa.
Thuyết của McLennan -
dù có vẻ hợp lí - nhưng hình như vẫn không vững vàng cho lắm, ngay cả với tác
giả của nó. Ít nhiều thì chính ông cũng chú ý tới
“điều đáng nói là hình thức
cướp đoạt đàn bà lại rõ rệt và nổi bật nhất ở chính những dân có quan hệ huyết
tộc theo nam hệ” (tr. 140)
Và lại nữa
“Một điều kì lạ là: theo chúng tôi biết, thì
không có tục lệ giết trẻ con ở những nơi mà chế độ ngoại hôn và hệ thống thân
tộc cổ nhất cùng tồn tại” (tr. 146)
Hai điều trên mâu
thuẫn rõ rệt với cách giải thích của ông; và ông chỉ có thể giải quyết chúng
bằng những giả thuyết mới, còn phức tạp hơn nữa.
Tuy thế, thuyết của ông
vẫn được hoan nghênh và ủng hộ nhiệt liệt ở Anh; ở đó, nói chung McLennan được
xem là nhà sáng lập ra ngành lịch sử gia đình, và là người có uy tín bậc nhất
về lĩnh vực đó. Mặc dù, một vài ngoại lệ và sai khác cá biệt đã được phát hiện,
sự đối lập giữa các “bộ lạc” ngoại hôn và nội hôn - mà McLennan đưa ra - vẫn
đứng vững với vai trò là cơ sở của quan điểm được thừa nhận; và vẫn đóng vai
trò miếng vải che mắt, cản trở mọi nghiên cứu tự do trong lĩnh vực này, khiến
cho một bước tiến quyết định không thể xuất hiện. Để chống lại việc quá đề cao
McLennan ở Anh, và được lặp lại ở nhiều nước khác, cần phải chỉ ra sự thật là: ông ta, bằng những nghiên cứu của mình,
và với sự đối lập hoàn toàn sai lầm của mình về những “bộ lạc” ngoại hôn và nội
hôn, đã gây hại nhiều hơn là làm lợi.
Nhưng không lâu sau, sự thật đã được đưa ra
ánh sáng, ngày càng có nhiều sự kiện không phù hợp với cái khuôn khổ ngăn nắp
của ông ta. McLennan chỉ biết đến ba hình thức hôn nhân: nhiều vợ, nhiều chồng
và cá thể. Nhưng một khi đã chú ý tới vấn đề đó, thì người ta ngày càng thấy
nhiều bằng chứng về những hình thức hôn nhân ở các dân tộc ít phát triển, trong
đó một số đàn ông lấy chung nhau một số đàn bà, và
Lubbock (“Nguồn gốc của Văn
minh ...”7a, 1870) đã công nhận chế độ quần hôn đó (communal marriage) là một sự
thật lịch sử.
Ngay năm sau, 1871,
Morgan đưa ra một bằng cớ mới có tính quyết định về nhiều mặt. Ông tin chắc
rằng hệ thống thân tộc đặc biệt, đang tồn tại ở người Iroquois, là phổ biến
trong toàn bộ những dân bản xứ ở Mĩ, do đó cũng là phổ biến trên cả lục địa;
mặc dù chế độ ấy mâu thuẫn trực tiếp với những quan hệ thân tộc do chế độ hôn
nhân hiện hành ở người Iroquois sinh ra. Ông đã thuyết phục chính phủ Liên bang
Mĩ thu thập tư liệu về những chế độ thân tộc ở các dân khác, có gửi kèm theo một
bảng đề mục và danh sách câu hỏi của chính ông. Từ những phúc đáp, ông đã tìm
ra rằng: 1) Chế độ thân tộc của người Indian ở châu Mĩ cũng lưu hành trong các
dân ở châu Á, và trong cả các dân ở châu Phi và lục địa Australia, dưới một
hình thức hơi khác; 2) Chế độ thân tộc đó được giải thích hoàn chỉnh nhờ một
hình thức quần hôn, đang tàn lụi, có ở Hawaii và các đảo khác thuộc châu Đại
dương; 3) Cùng với chế độ quần hôn đó, ở các đảo trên còn tồn tại một chế độ
thân tộc khác, mà người ta chỉ có thể giải thích chúng nhờ một hình thức quần
hôn còn cổ hơn nữa, nhưng đã biến mất. Morgan đã công bố những tài liệu trên,
và cả những kết luận mà ông rút ra từ đó, trong cuốn “Các Chế độ Thân tộc ...”8
(1871); do đó đã đưa cuộc tranh luận vào một lĩnh vực rộng lớn hơn nhiều. Bắt
đầu từ các chế độ thân tộc, khôi phục các hình thức gia đình tương ứng với các
chế độ đó; Morgan đã mở ra một con đường nghiên cứu mới, và mở rộng tầm nhìn
của chúng ta về thời tiền sử của loài người. Nếu phương pháp đó là đúng đắn,
thì những lí thuyết đẹp đẽ của McLennan sẽ bị phá hủy hoàn toàn.
McLennan đã bảo vệ
thuyết của mình trong lần xuất bản mới của cuốn “Hôn nhân Nguyên thủy” ("Nghiên
cứu Lịch sử Cổ đại", 1876). Trong khi chính mình đã dựng lên một lịch sử gia
đình hết sức giả tạo, chỉ dựa vào các giả thuyết thuần túy; thì ông ta lại đòi
Lubbock và Morgan phải có bằng cớ cho từng luận điểm một của họ, hơn nữa lại
đòi các bằng cớ không thể tranh cãi được, như là những bằng cớ được đưa ra
trước tòa án Scotland vậy. Cũng chính ông ta, từ câu chuyện của Tacitus
(“Germania”, ch. 20) về quan hệ gần gũi giữa người cậu với con trai của chị em
mình ở người Germania, câu chuyện của Caesar rằng người Briton - từng nhóm
mười, mười hai người - đã lấy chung vợ, và các câu chuyện khác của các tác giả
cổ đại về tình trạng chung vợ của những người dã man, đã kết luận không do dự rằng
tất cả những dân đó đều sống trong chế độ nhiều chồng! Giống hệt bên nguyên,
khi buộc tội thì cho phép mình trình bày thế nào cũng được; nhưng lại đòi bên
bị phải có bằng chứng có giá trị nhất cho từng lời họ nói.
McLennan khẳng định:
chế độ quần hôn hoàn toàn là tưởng tượng, như vậy là đã lạc hậu hơn Bachofen
nhiều. Ông ta tuyên bố: các chế độ thân tộc của Morgan chỉ là phép tắc lễ nghi
thông thường, bằng chứng là người Indian cũng gọi người ngoài hoặc người da
trắng là “anh” hay “cha”. Nói như McLennan, thì những từ “cha”, “mẹ”, “anh em”,
“chị em” cũng chỉ là cách xưng hô đơn thuần; vì các linh mục cũng được gọi là
“cha”, các bà trưởng tu viện cũng được gọi là “mẹ”; và vì các thầy tu và các ni
cô, thậm chí các hội viên Hội Tam điểm và các hội khác ở Anh, đều gọi nhau là
“anh em”, “chị em” trong các cuộc họp chính thức của họ. Tóm lại: sự biện hộ của
McLennan thật yếu ớt, khổ sở.
Nhưng ông ta vẫn chưa
bị đánh bại ở một điểm. Sự đối lập giữa các “bộ lạc” ngoại hôn và nội hôn, là cơ sở cho toàn
bộ hệ thống của ông ta; không chỉ vẫn đứng vững, mà còn được thừa nhận rộng rãi
là viên đá tảng của toàn bộ lịch sử gia đình. Nỗ lực của McLennan để giải thích
sự đối lập đó có thể chưa đầy đủ và còn mâu thuẫn với chính những sự kiện mà
ông ta nêu ra; nhưng bản thân sự đối lập đó - sự tồn tại của hai loại bộ lạc
độc lập với nhau, không dung hợp được với nhau, một loại thì chỉ cho phép kết
hôn trong nội bộ, loại kia thì tuyệt đối cấm việc đó - vẫn là một tín điều thần
thánh. Ví dụ cuốn “Nguồn gốc gia đình”9 (1874) của Giraud-Teulon, và ngay cả
cuốn “Nguồn gốc của Văn minh ...”7b (xuất bản lần thứ tư, 1882) của Lubbock.
Lúc đó, Morgan xuất
kích với tác phẩm chủ chốt của mình, “Xã hội Cổ đại” (1877), nó cũng là cơ sở
cho cuốn sách này. Những cái mà Morgan chỉ lờ mờ đoán ra năm 1871, bây giờ được
phát triển với sự nhận thức đầy đủ. Không có mâu thuẫn nào giữa nội hôn và
ngoại hôn cả, tới nay thì sự tồn tại của các “bộ lạc” ngoại hôn vẫn không được
chứng minh ở bất kì đâu. Nhưng ở thời mà chế độ quần hôn còn thịnh hành - và
chắc chắn đã có thời nó thịnh hành ở khắp nơi - thì bộ lạc đã được chia thành các
tập đoàn huyết tộc mẫu hệ, tức là thành các thị tộc; trong thị tộc, người ta
tuyệt đối cấm kết hôn nội bộ, nên người đàn ông - dù có thể lấy vợ trong cùng bộ
lạc, và vẫn thường làm vậy - lại bị buộc phải lấy vợ ở thị tộc khác. Vậy, trong
khi thị tộc theo chế độ ngoại hôn hết sức nghiêm ngặt, thì bộ lạc cũng theo chế
độ nội hôn nghiêm ngặt không kém. Tàn dư sau cùng của các cấu trúc giả tạo do
McLennan dựng lên, do đó đã bị đánh đổ.
Nhưng không dừng ở đó, nhờ
có thị tộc của người Indian châu Mĩ, Morgan đã làm nên bước tiến lớn thứ hai
trong lĩnh vực của mình. Từ thị tộc đó, vốn được tổ chức theo chế độ mẫu quyền, ông đã phát hiện ra
hình thức nguyên thủy của thị tộc; nó đã phát triển thành những thị tộc mới,
được tổ chức theo chế độ phụ quyền, là các thị tộc mà ta gặp ở các dân tộc văn
minh thời cổ đại. Thị tộc Hi Lạp và La Mã, tới lúc đó vẫn là một bí ẩn đối với
mọi sử gia, đã được giải thích nhờ thị tộc Indian; và do đó, toàn bộ lịch sử
nguyên thủy cũng được đặt trên một cơ sở mới.
Sự phát hiện lại thị
tộc mẫu quyền nguyên thủy, trong thời kì trước khi có thị tộc phụ quyền ở các
dân tộc văn minh, có ý nghĩa vĩ đại đối với nhân loại học; cũng như thuyết tiến
hóa của Darwin đối với sinh vật học, hay lí thuyết giá trị thặng dư của Marx
đối với kinh tế chính trị học. Nó cho phép Morgan phác ra, lần đầu tiên, lịch
sử của gia đình; trong đó, ít nhất thì các giai đoạn phát triển điển hình của
gia đình cũng được xác định, trong chừng mực các tài liệu hiện có cho phép. Rõ
ràng là điều đó đã mở ra một thời đại mới trong nghiên cứu lịch sử nguyên thủy.
Thị tộc mẫu quyền là cái trục để toàn bộ khoa học đó xoay quanh; từ khi có phát
hiện đó, ta đã biết phải nghiên cứu theo hướng nào, nghiên cứu cái gì, sắp xếp
những kết quả có được như thế nào. Do đó, từ khi có cuốn “Xã hội Cổ đại”, những
bước tiến trên lĩnh vực đó đã diễn ra nhanh hơn nhiều.
Hiện nay, các nhà nhân
loại học, kể cả ở Anh, đều đề cao - đúng ra là chiếm đoạt - các phát hiện của
Morgan. Nhưng hầu như không ai trong số họ thật thà nhận rằng: nhờ Morgan mà ta
mới có được cuộc cách mạng trong quan điểm. Ở Anh, họ cố không nói đến cuốn
sách đó; họ gạt tác giả của nó sang một bên, bằng cách hạ cố khen ngợi các
thành quả trước kia của ông; họ không ngớt bới lông tìm vết về các chi tiết,
ngoan cố lờ đi các phát hiện thực sự vĩ đại của ông. Lần xuất bản đầu tiên của
cuốn “Xã hội Cổ đại” đã bán hết: không có chỗ tiêu thụ cho một cuốn sách loại
đó ở Mĩ; ở Anh, hình như nó đã bị tịch thu một cách có hệ thống; và bản in duy
nhất còn lại trên thị trường của tác phẩm vạch thời đại đó, lại là bản dịch ra
tiếng Đức.
Vì sao lại có sự lãnh
đạm đó? Thật khó mà cho rằng đó không phải là một sự thông đồng để ỉm đi; các
nhà nhân loại học của chúng ta vẫn thường gói gọn các trước tác của mình trong
một lô trích dẫn, phần vì lễ độ, phần vì thân tình. Hay vì Morgan là người Mĩ,
và với những nhà nhân loại học người Anh - hiện vẫn phụ thuộc vào hai thiên tài
ngoại quốc, Bachofen và Morgan, trong việc phân loại và sắp xếp tài liệu, tóm
lại là những vấn đề về tư tưởng; mặc dù sự công phu của họ trong việc sưu tầm
tài liệu là rất đáng khen - thì điều đó là rất khó chịu? Người Đức thì họ còn
chịu được, nhưng người Mĩ thì sao? Đứng trước người Mĩ, người Anh nào cũng trở
nên yêu nước; tôi đã thấy nhiều ví dụ buồn cười về việc này khi ở Mĩ. Hơn nữa,
có thể nói McLennan là nhà sáng lập và lãnh tụ được thừa nhận của trường phái
nhân loại học nước Anh; và việc nhắc tới - một cách hết sức kính cẩn - cái chuỗi
cấu trúc lịch sử giả tạo của ông ta (giết trẻ con, chế độ nhiều chồng, hôn nhân
cướp đoạt, gia đình mẫu quyền) cũng gần như là một nguyên tắc lễ nghi của
ngành. Mối nghi ngờ nhỏ nhất đối với sự tồn tại của các “bộ lạc” ngoại hôn và
nội hôn, và sự đối lập tuyệt đối giữa chúng, đều bị coi là dị giáo. Morgan đã
phạm vào tội báng bổ thánh thần khi phá tan những giáo điều thần thánh đó. Vả
lại, ông đã phá tan chúng chỉ bằng cách đưa ra các lí lẽ rõ ràng nhất, thấy
được ngay; và các học trò của McLennan - tới nay vẫn quay cuồng giữa ngoại hôn
và nội hôn - chỉ có thể tự vỗ trán mà kêu lên: “Sao ta lại ngốc đến mức không
nghĩ tới nó từ trước?”
Nếu chừng đó tội danh
vẫn chưa đủ cho trường phái chính thống lạnh lùng lờ đi Morgan, thì ông lại còn
đi quá giới hạn: không chỉ phê phán thời đại văn minh - tức là xã hội của sản
xuất hàng hóa, hình thức cơ bản của xã hội
ngày nay - theo cách làm người ta nhớ tới Fourier; ông còn nói đến một sự cải
biến tương lai đối với xã hội đó, với những lời lẽ giống như là của Karl Marx.
Vì thế, ông hoàn toàn xứng đáng với lời chỉ trích phẫn nộ của McLennan: “ông
Morgan có ác cảm với phương pháp lịch sử”, cũng như khi ngài giáo sư Giraud-Teulon ở Genève
lặp lại câu đó năm 1884. Ấy thế mà cũng chính ngài ấy, hồi năm 1874 (“Nguồn gốc
gia đình”) vẫn đang mò mẫm bất lực trong cái mê cung ngoại hôn của McLennan; và
lúc đó Morgan đã tới cứu!
Về những tiến bộ khác
mà nhân loại học có được nhờ Morgan, tôi không cần nói đến ở đây; chúng đều được
đưa ra trong cuốn sách này. Mười bốn năm đã qua từ khi tác phẩm chính của
Morgan xuất hiện, các tài liệu về lịch sử của các xã hội loài người nguyên thủy
đã nhiều lên đáng kể. Các nhà nhân loại học, những người du hành, các nhà lịch
sử nguyên thủy chuyên nghiệp, và cả những nhà chuyên môn về luật pháp so sánh;
họ đã đưa ra các quan điểm mới, hoặc các tài liệu mới. Vì thế, một số ít giả
thuyết của Morgan đã bị lung lay, thậm chí bị bác bỏ. Nhưng không một quan điểm
chủ đạo nào của ông bị những tài liệu mới ấy bác bỏ. Về cơ bản, hệ thống của
ông về lịch sử nguyên thủy vẫn có giá trị tới ngày nay. Thực tế là, hệ thống
của Morgan càng được thừa nhận rộng rãi, thì vai trò của ông càng được che đậy cẩn
thận2*.
Chú thích của Engels
1* "Ancient Society, or Researches in the Lines of Human
Progress from Savagery through Barbarism to Civilization". By Lewis H. Morgan, London, MacMillan & Co.,
1877. Sách này in ở Mĩ, tìm được nó ở London là rất khó. Tác giả đã mất được
mấy năm nay.
2* Tháng Chín năm 1888, trên đường từ New
York trở về, tôi gặp một cựu nghị sĩ Mĩ ở khu Rochester, ông này quen biết Lewis
Morgan. Không may là ông ta không kể được nhiều cho tôi. Vị cựu nghị sĩ đó nói:
Morgan sống ở Rochester như một người bình thường, chỉ làm công việc nghiên cứu
khoa học của mình mà thôi; anh trai ông là đại tá, làm ở Bộ Chiến tranh ở
Washington; nhờ người anh đó, Morgan đã làm cho Chính phủ chú ý tới các nghiên
cứu của mình, và được đài thọ chi phí xuất bản vài cuốn sách. Khi còn ở trong nghị viện, ông ta cũng đã vài lần giúp đỡ Morgan.
Chú thích của người dịch
1 Trước khi được dùng làm lời tựa cho lần xuất bản thứ tư, bài này đã được đăng lên tờ "Neue Zeit", số 41, năm 1891, với tiêu đề nêu trên.
2 E.B. Tylor: "Researches into the Early History of Mankind and the Development of Civilization"; London, 1865.
3 J.J. Bachofen: "Das Mutterrecht: eine Untersuchung über die Gynaikokratie der alten Welt nach ihrer religiösen und rechtlichen Natur"; Stuttgart, 1861.
4 J.F. McLennan: "Studies in Ancient History", 1876, "Primitive Marriage".
5 R.G. Latham: "Descriptive Ethnology", 1859.
6 L.H. Morgan: "The League of the Ho-de-no-sau-nee or Iroquois"; Rochester, 1851.
7 a b Sir John Lubbock: "The Origin of Civilization and the Primitive Condition of Man. Mental and social condition of savages"; London, 1870.
8 L.H. Morgan: "System of Consanguinity and Affinity of the Human Family"; Washington DC, 1871.
9 A. Giraud-Teulon: "Les origines de la famille"; Paris & Genève, 1874.
[Mục lục]
[Chương sau]